Có 2 phương pháp xây dựng lý thuyết cổ điển. Diễn dịch của Rene Descartes và quy nạp của Francis Bacon.
Diễn dịch của Rene Descartes (1596-1650)
Ta hẳn biết triết lý và toán học hiện đại khởi đầu bằng công trình của Rene Descartes. Phương pháp phân tích về suy luận tập trung vào vấn đề nhận thức luận (epistemology, nghĩa là chúng ta biết như thế nào), vốn là mối ưu tư của các triết gia từ đó.
Descartes đã theo học ở trường nổi tiếng Jesuit of La Fleche, đã thụ huấn về triết, khoa học và toán. Ông có một chứng chỉ luật và sau đó tình nguyện gia nhập quân đội để có phương tiện cũng như cơ hội nới rộng kinh nghiệm . Khi nghĩa vụ quân sự cho phép, ông tiếp tục nghiên cứu về toán và khoa học. Rốt cuộc, ông không hài lòng với những phương pháp không hệ thống dùng bởi các giới chức tiền nhiệm trong khoa học, bởi ông kết luận: chúng không sản xuất được bất kỳ điều gì mà không gây tranh cãi và kế tiếp là nghi hoặc, ngoại trừ trong lãnh vực toán học mà ông tin đã được xây dựng trên một nền tảng vững chắc. Mặt khác, khoa học thời Trung Cổ, phần lớn đặt căn bản trên các tín điều của các khoa học gia trong quá khứ hơn là sự khảo sát trong hiện tại. Vì thế Descartes quyết định phát động một phương án nghiên cứu riêng cá nhân. Nhưng theo ông, ngay cả sự quan sát cá nhân trong cuốn sách Thiên Nhiên cũng không đủ vượt qua sự nghi hoặc bởi vì sự quan ngại của ông về "sự lừa gạt của giác quan". Sau khi nhận xét tất cả các phương pháp điều tra cũ mới hiện có, Descartes quyết định rằng phải có một phương thức tốt hơn, và trong bài thuyết trình về phương pháp (Discourse on Method), ông viết, "Cuối cùng tôi quyết định nghiên cứu tự mình tôi, và chọn con đường đúng".Descartes tỏ nguyện vọng tái thiết một hệ thống chân lý mới đặt nền tảng trên một nguyên lý bất khả phản bác, giống như điểm tựa của Archimedes, cho phép ông "dời trái đất ra khỏi quỹ đạo của nó và đặt nó trong một quỹ đạo khác". Các bạn còn nhớ câu: "hãy cho tôi một điểm tựa, tôi có thể nâng quả đất" không? Nguyên lý đầu tiên ông cảm thấy hiển nhiên được tóm gọn trong phát biểu: Cogito ergo sum (I think therefore I am). Descartes tin rằng từ đấy, ông ta có thể dùng phương pháp lý luận mới xây dựng trên nguyên lý đầu tiên này, cuối cùng dẫn đến sự thống nhất mọi kiến thức. Phương pháp của Descartes đặt trên những quy tắc sau:
1- Quy tắc đầu tiên là không bao giờ chấp nhận bất cứ cái gì là đúng trừ phi tôi nhận ra một cách tỏ tường những điều này: cẩn thận tránh sự vội vã và tiên kiến (đánh giá quá sớm), và không kết luận điều gì trừ khi nó tự hiển thị rõ ràng, minh bạch trong đầu tôi rằng không còn một mảy may ngờ vực nào nữa.
2- Quy tắc thứ hai là chia sự khó khăn thành nhiều phần càng nhỏ càng tốt, và vì nhỏ, đáp án dễ tìm hơn.
3- Thứ ba là suy nghĩ trong một cung cách thứ tự, bắt đầu với những sự việc dễ và đơn giản nhất và từ từ tiến sâu vào những nan đề phức tạp hơn, coi như các tài liệu theo thứ tự không nhất thiết phải thế.
4- Cuối cùng là hoàn chỉnh các liệt kê, tổng quát các ghi chép sao cho không còn gì bỏ sót.
Tóm lại, phương pháp của ông đòi hỏi (1) chấp nhận là đúng chỉ khi ý tưởng ấy rõ ràng, không thể ngờ vực, (2)chia vấn đề thành nhiều phần nhỏ, (3)đúc kết, rút tỉa kết luận từ kết luận khác và (4) thực hiện một tổng hợp có hệ thống của toàn vấn đề. Descartes đặt toàn thể phương thức triết lý về khoa học của ông trên phương pháp lý luận diễn dịch.
Descartes đã rất lạc quan về kế hoạch tái thiết một thực thể tri thức mới đáng tin cậy. Ông ta còn băn khoăn nếu trong "mọi sự có thể hiểu được với con người", có thể không là một ứng dụng thích hợp phương pháp của ông mà "không thể có bất cứ những mệnh đề quá khó hiểu đến nỗi không thể chứng minh hoặc quá tối nghĩa mà chúng ta không thể khám phá".
Phạm vi tổng quát rõ rệt của Descartes có thể dẫn đưa đến kết luận rằng khoa học về nhận thức của ông (epistemology) đòi hỏi sự bác bỏ mọi thẩm quyền kiến thức, kể cả thánh kinh. Về dữ kiện, ông tự xem ông là một tín đồ Công giáo và để tôn trọng "chân lý mặc khải" (truths of revelation), ông bày tỏ: "Tôi không dám đặt những chân lý này vào những nhược điểm lý luận của tôi"
Rốt cục vì đức tin tôn giáo mà ông tự giam hãm trong cái vỏ kén của sự tự xét mình. Tuy nhiên, Descartes đã gieo trồng những hạt mầm chống đối quan điểm duy thần của thế giới để cho phép con người lệ thuộc vào chính lý trí mình chứ không phải lệ thuộc vào thần linh như xưa. Phần còn lại cho những nhà nhân bản chủ nghĩa theo đuổi để dành một chủ nghĩa duy lý toàn diện như phương tiện chính thiết lập chân lý.
Quy nạp của Francis Bacon (1561-1626)
Francis Bacon được gọi là vị tiên tri chính của cuộc cách mạng khoa học. Mới 12 tuổi, Francis Bacon theo học ở trường đại học Ba Ngôi (Trinity College, Cambridge), sau đó tốt nghiệp luật và cuối cùng được phép vào các tiệm bán rượu (1582, như thế, ông thành tài trước 21 tuổi). Ra trường, ông hoạt động chính trị với hy vọng nó giúp ông thực hiện những ý tưởng về sự tiến bộ khoa học. Khoảng thời gian ấy, ông được bầu làm dân biểu, phong chức hiệp sĩ (một đẳng cấp quý phái trong xã hội hơn là một chức vị), nắm giữ chưởng lý và tước vị Baron Verulam, Viscount St. Albans. Ông nổi tiếng là phát ngôn viên cho quốc hội Anh và như một chuyên gia luật Anh quốc cho vài vụ án nổi tiếng thời đó . Với tư cách một triết gia xuất chúng, Bacon động viên chính mình viết về những lĩnh vực sâu xa như khoa học và luật dân sự trong cuộc tranh đấu chống lại những lề luật xưa cũ của kinh điển chủ nghĩa (scholasticism) với sự lệ thuộc một cách nô dịch vào những điều nhà chức trách chấp nhận.
Ông biện hộ cho quan điểm rằng :"bất kỳ điều gì trí tuệ nhận thức và tin tưởng với mãn nguyện xưa nay đều được đánh giá là khả nghi". Sự đam mê vào viễn ảnh sự tiến bộ của triết lý thiên nhiên mọc rễ trong niềm tin của ông rằng khoa học lệ thuộc vào tiến bộ kỹ thuật và cũng là nhân tố chính của tiến bộ kỹ thuật. Hầu hết công trình triết lý của ông được áp dụng vào the Novum Organum, cuốn sách nói về suy luận theo phương pháp quy nạp dùng cắt nghĩa thiên nhiên.
Bacon phê phán rất gay gắt những kẻ kinh điển chủ nghĩa chỉ muốn nhảy từ một vài khảo sát tiểu tiết sang những định lý xa vời, rồi thì loại suy những định lý ấy qua chứng minh tam đoạn luận .(nói dễ hiểu hơn là chỉ cần quan sát sơ sơ rồi hấp tấp kết luận). Ông cũng bày tỏ mối bi quan của những người thuộc học phái kinh nghiệm chủ nghĩa, lầm lạc với những thí nghiệm bất cần tham khảo những hiện tượng liên hệ, vì chúng đã bị coi như vô lý trong sự tổng hợp của họ. Theo Bacon, có 4 phạm trù (nôm na thể loại) về tri thức sai, hay "Quan niệm sai lạc (Idols), gọi theo cách của ông, đã chiếm ngự trong đầu óc con người thời đó. 4 quan niệm sai lạc kiểu đó là:
- Quan niệm sai lạc kiểu bộ tộc (Idols of the tribe): Là niềm tin sai lầm trong đầu óc con người. Chúng ta có khuynh hướng phóng đại, xuyên tạc và thiên vị. Khi chúng ta nhìn ngắm bầu trời, chúng ta không dừng lại ở chỗ ghi nhận trung thực cái gì đã mục kích. Chúng ta đem ý kiến riêng, thêm thắt vô số những bản chất tưởng tượng vào các thiên thể. Lâu dần những tưởng tượng này trở nên có uy tín và lẫn lộn với các sự kiện khoa học cho đến khi thực giả quyện thành một khối không thể tách rời. Gọi là bộ tộc vì chúng nằm sâu trong bản chất con người. Ví dụ thuyết địa cầu là trung tâm vũ trụ phát sinh từ những hạn chế của hiểu biết nhân loại. Vì tất cả nhận thức chúng ta, cả cảm giác và trí tuệ là những phản ảnh con người, không phải vũ trụ, quan niệm sai lạc kiểu bộ tộc bắt rễ trong sự bất toàn thiên bẩm của con người.
- Quan niệm sai lạc kiểu hang động (Idols of the cave): Cắt nghĩa chủ quan vì bịa đặt cá nhân hay khuynh hướng cá nhân. Ví dụ khái niệm Thế giới quan từ trường của Gilbert. Ông cho rằng từ lực là linh hồn của trái đất. Xin tìm Gilbert's "magnetic world view." trong http://chem.ch.huji.ac.il/~eugeniik/...y/gilbert.html để đọc thêm. Trí tuệ con người giống như một hang động. Tư tưởng của mỗi cá nhân lần mò trong hang thẳm và được sửa đổi bởi tính khí, giáo dục, thói quen, môi trường và may rủi. Vì vậy, một người dốc tâm nghiên cứu vấn đề nào đó nô lệ vào chính sự quan tâm của ông ta và chuyển dịch mọi hiểu biết khác theo công trình nghiên cứu của mình. Nhà hóa học cho rằng hóa học là chủ chốt mọi sự, nhà vật lý cho rằng vật chất là tất cả.
- Quan niệm sai lạc kiểu mậu dịch (Idols of the market-place): Trở ngại ngôn ngữ và sự lẫn lộn giữa ngôn từ và thuật ngữ. Ví dụ vấn đề định nghĩa các từ lại lệ thuộc vào chính các từ. Ta không thể định nghĩa chữ bằng cách dùng chữ cũng như không thể lấy thước đo sự chính xác của thước khác hay dùng một quả cân để nghiệm nặng nhẹ quả cân khác. Con người uốn nắn tư tưởng thành ngôn ngữ để tiện trao đổi nhưng ngôn ngữ thường thay thế tư tưởng và con người nghĩ rằng họ thắng thế trong một tranh luận vì họ nói hay nói giỏi hơn đối phương. Ảnh hưởng của sự vận dụng ngôn ngữ bất cần lưu ý đến ý nghĩa xác thực của nó chỉ bóp méo sự hiểu biết và nảy sinh sai lạc. Ngôn ngữ thường phản bội mục đích của nó, làm lu mờ tư tưởng nó được dùng để diễn tả.
- Quan niệm sai lạc kiểu sân khấu (Idols of the theatre): Những giáo điều triết lý được nhận thức từ những quy luật chứng minh sai. Nó liên quan đến kết quả phương pháp lý luận tam đoạn luận của Aristote. Chúng rất nguy hiểm vì tính hoang đường và hoàn toàn không thể kiểm chứng. Chúng gồm ngụy biện, duy nghiệm và mê tín dị đoan trong lãnh vực lý thuyết, triết lý và khoa học.Khi triết lý sai lầm được khai thác và đạt được uy tín trong thế giới của các nhà trí thức, con người sẽ không dám ngờ vực nữa. Vì triết lý trực tiếp kế thừa một tiến trình cá biệt và con đường của đời sống, và cả 2 thành phần này được lãnh hội qua học hỏi, không phải bẩm sinh. Vì thế, quan niệm sai lạc kiểu kịch nghệ dùng để chỉ sự việc không thể lý luận, không thể hiểu thấu. The Phaedo của Plato là một thí dụ. Đề mục là vấn đề linh hồn sau khi chết. Vì không ai chết đi, sống lại để kể lại cuộc du hành của linh hồn, Plato bắt đầu cắt nghĩa bằng nhận thức của mình. Tuy nhiên, sự hiểu thấu và lý luận của ông bị giới hạn rằng cho đến lúc ông ta kể câu chuyện của ông, ông chưa hề chết. Vì vậy The Phaedo là một quan niệm sai lạc kiểu sân khấu kịch nghệ vì cái được diễn giải là hoang đường và đòi hỏi một niềm tin mãnh liệt để có thể tin được.
Trái với những quan niệm sai lạc kiểu trên (xin hiểu quan niệm sai lạc theo ông là nhược điểm trong suy luận con người) Bacon nói rằng một khoa học đích thực tiến hóa trong những bậc thang đi lên và bằng những nấc thang kế nhau không gián đoạn hay hư gẫy, chúng ta tiến từ những hiện tượng riêng biệt đến những định lý sơ khởi và rồi những định lý trung gian, cái này bao gồm những cái trước, và cuối cùng hình thành cái định luật quán triệt tất cả. Tóm lại, phương pháp của ông yêu cầu:
Trái với những quan niệm sai lạc kiểu trên (xin hiểu quan niệm sai lạc theo ông là nhược điểm trong suy luận con người) Bacon nói rằng một khoa học đích thực tiến hóa trong những bậc thang đi lên và bằng những nấc thang kế nhau không gián đoạn hay hư gẫy, chúng ta tiến từ những hiện tượng riêng biệt đến những định lý sơ khởi và rồi những định lý trung gian, cái này bao gồm những cái trước, và cuối cùng hình thành cái định luật quán triệt tất cả. Tóm lại, phương pháp của ông yêu cầu:
(1) Thu thập những quan sát riêng biệt (những hiện tượng đơn lẻ thuộc kinh nghiệm).
(2) Bằng quy nạp, suy ra những định lý sơ khởi.
(3) Cuối cùng đề xuất những ý tưởng quán triệt nhất, theo từng bước tiệm tiến.
Nếu chúng ta đọc ý nghĩa hiện đại thành ngôn ngữ Bacon dùng, chúng ta có thể thấy một điềm báo của ý tưởng một giả thuyết trong từ "định lý sơ khởi". Định lý sơ khởi chính là giả thuyết vậy. Xin đừng trách Bacon, thời đó chữ nghĩa cầu kỳ khó hiểu lắm. Sự kiện này giúp phương pháp của ông thích hợp với khái niệm đã trưởng thành của khoa học ngày nay, tuy nhiên, ngữ cảnh (context) chỉ rõ rằng ý tưởng của ông vẫn chưa được phát triển toàn diện. Bacon cũng lý giải rằng phương pháp quy nạp này "phải được áp dụng không những trong việc khám phá các định lý mà còn ngay cả trong việc đúc kết thành định luật cuối cùng nữa", có lẽ phù hợp với khái niệm của một hệ khuôn thước, nhưng một lần nữa, nó có thể văn bản hóa. Trong cả 2 trường hợp, rõ ràng quan điểm của Bacon về phương pháp khoa học là tiệm tiến và tích trữ dữ kiện khảo sát.
Sự chấp hành táo bạo kinh nghiệm chủ nghĩa của Bacon có thể ám chỉ trong vài trường hợp ông không chấp nhận bất kỳ kiến thức nào không được nhận ra từ sự quan sát cá nhân. Điều này là một sự hiểu lầm hẹp hòi quan điểm triết lý thiên nhiên của Bacon, lĩnh vực ông cho rằng là một nô tỳ trung thành nhất của tôn giáo.
Bacon thực sự thấy phương pháp mới của ông về lãnh hội kiến thức là một thể hiện sự linh ứng lời tiên tri trong Thánh Kinh về ngày tận thế " Sẽ có nhiều người đến và đi và kiến thức sẽ tăng thêm". Thêm vào đó, ông thấy sự tiến bộ khoa học kỹ thuật chính là sự phục hồi sứ mệnh thống trị. Ông viết :"Loài người ngã xuống từ sự vô tội cùng một lượt với sự thống trị của mình trước đấng sáng tạo. Cả hai sự mất mát này có thể được sửa chữa một phần trong cõi tạm; sự sạch tội thì bằng tôn giáo và đức tin, sự thống trị thế giới bằng nghệ thuật và khoa học". Tuy thế, có lý do tin rằng quan điểm của Bacon sẽ gây quan ngại cho các nhà nhân loại bản chủ nghĩa, vì ông tin rằng phương pháp quy nạp "sẽ đẩy lùi cái hạn chế của quyền năng và sự vĩ đại của con người", và một ngày nào đó sẽ "nắm tất cả". Với những người ủng hộ quan điểm thế giới khoa học, sự dự đoán này được công bố là đã linh nghiệm.
Dị đồng trong phương pháp luận của Descartes và Bacon
Sự khác biệt giữa Descartes và Bacon rất nhiều và sâu xa, nhưng cũng có nhiều điểm giống nhau. Mỗi vị tiền phong này rao truyền sự phế bỏ mọi phương pháp cổ truyền và mọi kết quả của các công trình nghiên cứu trước. Cả hai đòi hỏi một tiêu chuẩn chính xác mới vì có quá nhiều thí dụ về lý luận tuỳ tiện và quan sát chủ quan trên con đường khoa học trong quá khứ.
Cũng có một niềm tin chung giữa 2 vị là mối hoài nghi về "sự dối gạt của giác quan". Thêm vào đó, họ tin vào sự lược giảm những vấn đề thành những thành phần nhỏ nhất, đơn giản nhất như một nguyên tắc tổng quát. Descartes và Bacon mỗi người tự thấy mình chủ yếu trong vai trò hiển dương khoa học và do đó họ đóng góp rất ít vào bất cứ lãnh vực riêng biệt nào đó trong khoa học thực nghiệm. Cuối cùng, cả hai đều là những thiên tài thăng tiến các lãnh vực của khoa học mà sau đó trở nên điều kiện phải có để tiến bộ.
Khác biệt rõ ràng nhất trong phương pháp luận của Descartes và Bacon liên hệ đến quá trình lý luận. Descartes bắt đầu với những nguyên lý rút ra bằng trực giác làm tiền đề trong phương pháp luận diễn dịch chuẩn, nhưng Bacon bắt đầu bằng quan sát duy nghiệm, áp dụng quy nạp pháp suy luận ra những định lý cao hơn. Phương pháp của Descartes là phương thức từ trên đi xuống, còn Bacon là từ dưới đi ngược lên. Sự khác biệt này rõ rệt đến nỗi có những lúc Bacon chỉ trích nặng nề phương pháp của Descartes là thí dụ điển hình cho những gì sai lầm trong khoa học. (Hehehe dĩ nhiên Bacon không tố cáo Descartes phản cuốc, phản xẻng như Việt Cộng). Một khác biệt cốt yếu trong học trình của 2 người là Descartes am hiểu một cách quán triệt về toán học và Bacon thì không chuyên về toán. Descartes được ghi nhận về những thành công trong đại số và hình học và Bacon thì ít đề cập về toán vì ông chuyên môn về luật.
Học trình có thể giải thích những tương tự trong phương pháp của Descartes luôn song song với chứng minh toán học . Riêng Bacon, sự quan sát duy nghiệm trong khoa học có thể tương ứng với "nhân chứng" cần có để chuẩn bị cho một vụ án vì ông là một luật gia. Dựa vào học trình của Descartes, nó có vẻ rõ rệt rằng cái méo mó nghề nghiệp của ông có thể thấy trong các nhà toán học, ông nói :"các toán học gia đã có thể tìm ra vài chứng minh, vài vài lý do chắc chắn và minh bạch", vì vậy, ông quyết định "bắt đầu với những gì họ đã làm". Dù sự nghiệp xuất chúng của Bacon, ông ta đã thực sự rất thực dụng chủ nghĩa trong việc theo đuổi một mẫu mã tìm thấy trong cơ khí học. Nghệ thuật cơ học đặt nền tảng trên thiên nhiên và ánh sáng của kinh nghiệm.
Vì sự quan sát này ông đã bị ấn tượng sâu xa về sự khám phá ngành in ấn, thuốc súng và từ lực. Trong quan điểm "không đế quốc, giáo phái hay thiên thể nào có vẻ áp đặt quyền lực và ảnh hưởng trong công việc của con người hơn những khám phá cơ học này". Một lưu ý quan trọng là dù phương pháp của Bacon và Descartes khác nhau, khi các mẫu mã của họ được tổng hợp thành một, chúng ta có một sự đoán trước về toán học thực nghiệm hiện đại. Hiện nay, ta có thể thấy khi gộp chúng lại với nhau, phương pháp của Rene Descartes và Francis Bacon là phôi thai của phương pháp khoa học hiện đại.
Phương pháp tổng hợp
Hoài nghi là một phần không thể thiếu của khoa học, được xác định là một bộ phương pháp mô tả, diễn dịch những hiện tượng quan sát hay ước tính, quá khứ hay hiện tại và nhằm xây dựng một vật thể kiến thức có thể thử nghiệm được để bác bỏ hay khẳng định nó. Nói cách khác, khoa học là một cách thức cá biệt dùng để phân tích thông tin với mục đích trắc nghiệm các lý thuyết. Định nghĩa phương pháp khoa học không đơn giản như ta tưởng. Triết gia khoa học chiếm giải Nobel, Sir Peter Medawar nhận xét: Hỏi một khoa học gia ông dùng phương pháp gì trong công trình nghiên cứu của mình thì ông ta sẽ bối rối ngay vì chẳng biết nói như thế nào cả.
Có rất nhiều tài liệu nói về phương pháp khoa học, nhưng khó tìm thấy sự nhất trí trong số các tác giả. Điều này không có nghĩa là các khoa học gia không biết họ làm gì. Làm và cắt nghĩa có lẽ là 2 việc khác nhau. Tuy nhiên, họ đều công nhận rằng có 4 yếu tố trong việc suy luận một cách khoa học:
- Quy nạp: Lập giả thuyết bằng kết luận tổng quát từ những dữ kiện sẵn có.
- Diễn dịch: suy diễn và tiên đoán đặt cơ sở trên giả thuyết ấy.
- Quan sát: Thu thập dữ kiện, dựa vào giả thuyết để tìm dữ kiện trong thiên nhiên.
- Chứng nghiệm: Thử nghiệm những tiên đoán bằng những quan sát thêm nữa để khẳng định hay phủ định giả thuyết ban đầu.
Dĩ nhiên khoa học không cứng ngắc như thế; và không khoa học gia nào cố ý theo những bước ấn định rõ rệt. Tiến trình nghiên cứu là một chuỗi phản ứng tương tác và không ngừng, rút tỉa kết luận, tiên đoán và đối chiếu với chứng cớ. Giả thuyết sẽ đẽo gọt các loại quan sát bạn thu thập trong thiên nhiên, và giả thuyết tự nó cũng bị đẽo gọt bởi giáo dục, văn hóa và thiên kiến riêng của người quan sát.
Tiến trình này làm nòng cốt cái mà những triết gia khoa học gọi là phương pháp Diễn Dịch Giả Thuyết (Hypothetico-deductive), được cuốn tự điển Lịch Sử Khoa Học (Dictionary of the History of Science) cắt nghĩa như sau:
a) Lập giả thuyết.
b) Nối kết giả thuyết ấy với một phát biểu về tình trạng tiên khởi.
c) Từ giả thuyết và phát biểu, suy ra một tiên đoán.
d) Tìm xem tiên đoán ấy đúng hay sai. (trang 196 Bynum, Browne và Porter 1981).
Khó mà nói sự quan sát hay giả thuyết cái nào đến trước, vì chúng tương ứng lẫn nhau một cách mật thiết. Nhưng những quan sát thêm sẽ làm sung mãn tiến trình Diễn Dịch Giả Thuyết và chúng làm nhiệm vụ thẩm phán tối hậu để hiệu lực hóa các tiên đoán. Sir Arthur Stanley Eddington chú giải:" Về tính chân thực của những kết luận khoa học, thì sự quan sát chính là tối cao pháp viện của mọi kháng án." Qua phương pháp khoa học, chúng ta có thể tổng quát:
Khó mà nói sự quan sát hay giả thuyết cái nào đến trước, vì chúng tương ứng lẫn nhau một cách mật thiết. Nhưng những quan sát thêm sẽ làm sung mãn tiến trình Diễn Dịch Giả Thuyết và chúng làm nhiệm vụ thẩm phán tối hậu để hiệu lực hóa các tiên đoán. Sir Arthur Stanley Eddington chú giải:" Về tính chân thực của những kết luận khoa học, thì sự quan sát chính là tối cao pháp viện của mọi kháng án." Qua phương pháp khoa học, chúng ta có thể tổng quát:
Giả thuyết: Một phát biểu khả chứng giải thích một chuỗi quan sát liên hệ.
Lý thuyết: Một giả thuyết hay một hệ thống giả thuyết được thử nghiệm và được quan sát nâng đỡ toàn diện.
Một sự kiện khoa học: Một kết luận được khẳng định đến mức nó hợp lý để cung hiến một thỏa thuận lâm thời.
Một lý thuyết có thể mâu thuẫn với một kiến tạo (construct). Kiến tạo đây có nghĩa một phát biểu không thể chứng nghiệm, nôm na là dựng chuyện. Sinh vật trên Trái Đất có thể được giải thích : "Chúa sáng tạo" hay phát biểu: "Chúng tự phát triển theo luật tiến hóa." "Chúa sáng tạo" là một phát biểu loại kiến tạo, vì không thể chứng minh. Phát biểu thứ nhì là lý thuyết vì có thể chứng minh bằng quan sát và thí nghiệm. Hầu hết các nhà sinh vật học gọi sự tiến hóa là một sự kiện khoa học.
Qua phương pháp khoa học, chúng ta nhắm vào tính khách quan: đặt nền tảng sự kết luận trên chứng nghiệm ngoại tại. Và chúng ta tránh huyền hoặc: nền tảng sự kết luận trên tri thức cá nhân không thể kiểm chứng.
Tri thức cá nhân không có gì sai ở khởi điểm. Nhiều khoa học gia vĩ đại đã nhờ vào tri thức cá nhân, trực giác và những đột phá trí tuệ khó xác định khác. Alfred Russel Wallace nói rằng ý tưởng sự chọn lọc thiên nhiên chợt lóe lên trong đầu trong một cơn sốt rét. Nhưng những ý tưởng trực giác và tri thức huyền hoặc không trở nên khách quan cho tới khi được bên ngoài kiểm chứng.
Khoa học dẫn chúng ta về hướng duy lý chủ nghĩa: đặt nền tảng sự kết luận trên luận lý và chứng cớ. Ví dụ, làm thế nào ta biết Trái Đất tròn? Nó là một kết luận hợp lý rút ra từ quan sát:
- Bóng Trái Đất tỏa lên Mặt Trăng trong nguyệt thực thì tròn.
- Ngọn cột buồm là hình ảnh cuối ta thấy được trước khi khuất chân trời.
- Chân trời cong.
- Hình chụp từ không gian.
Và khoa học giúp ta tránh khỏi giáo điều chủ nghĩa: Đặt nền tảng sự kết luận trên nguồn thẩm quyền thay vì luận lý và chứng cớ. Ví dụ, Yêu nước là phải yêu đảng vì:
- Đảng nói thế.
- Bác dạy thế.
Kết luận một cách giáo điều không hẳn luôn luôn sai nhưng nó gợi ra những câu hỏi khác: Làm thế nào Đảng quả quyết thế là đúng? Họ được khoa học hướng dẫn hay bằng những phương tiện nào?
Lập giả thuyết
Lập giả thuyết
Thời còn bé Meta mê chơi dế. Sau mỗi buổi học là thơ thẩn ngoài đồng bắt dế, nhiều lúc quên cả cơm. Sau khi cày, dưới những tảng đất có biết bao côn trùng ẩn náu, sống bằng hạt lúa. Trong đó có con dế. Năm cắc ăn sáng để dành đến trưa mua cà rem, ra đồng vừa liếm vừa tìm lỗ dế. Dế khôn lắm. Gáy inh ỏi thế mà nghe bước chân người thì im bặt. Ở trường nói cái tai con dế ở cặp giò. Ngắt giò đi thì con dế bị điếc.
Hãy thí nghiệm.
Phàm chơi dế lão luyện như Meta là phải xếp hạng. Có dế vô địch, dế hạng hai, hạng 3 và có dế "roóc". Dế roóc đế chịu đá. Quay bằng tóc cỡ nào bỏ xuống, gặp địch thủ là chạy. Loại dế này dùng để ngắt đầu cắm vào cái tăm làm mồi nhử cho dế hăng máu. Meta bắt một con dế roóc làm thí nghiệm. Giả thuyết cho rằng dế nghe bằng cặp giò thì ông vặt giò đi xem mày còn nghe được không. Quả nhiên sau khi vặt cặp giò, thả ra ngoài đồng, hôm sau gặp lại nó không chịu nhảy: nó không nghe được bước chân Meta.
Các bạn thấy thí nghiệm này sai chỗ nào không? Con dế không nhảy vì nó không có giò để nhảy chứ không phải vì điếc. Phát biểu con dế nghe được nhờ cặp giò thì có thể đúng nhưng nó không nhảy được vì cụt giò chứ không phải vì không nghe thấy.
Hãy lập một đối thuyết: Con dế nghe được không phải bằng cặp giò. Mở nhạc ầm ĩ sao cho tiếng ồn át hẳn tiếng bước chân Meta. Đừng vặt giò nó. Nó vẫn nhảy như thường. Sự kiện này buộc ta nên xét lại toàn bộ phương pháp nghiên cứu khoa học của ta.
Nếu chúng ta tự hạn chế trong một giả thuyết độc nhất, chúng ta sẽ bỏ sót các dữ liệu không thích đáng nếu nó không chứa đựng sự giả chân của lý thuyết. Tuy nhiên, những dữ liệu ấy có thể hàm chứa tính đúng sai nếu ta có thêm một giả thuyết khác, tạm gọi là đối thuyết.
I - Đối thuyết
Một giả thuyết là một giải thích có hệ thống cho một nhóm dữ kiện liên hệ. Một đối thuyết là một cách giải thích khác cho nhóm dữ kiện ấy, kết quả ấy, sự kiện ấy. Thường thường giả thuyết là một phát biểu nhân quả: dữ kiện cho thấy X gây ra Y hoặc B xảy ra nếu A hiện diện. Điều quan trọng phải nhớ rằng trong lãnh vực của giả thuyết và giải thích, dữ kiện tự nó không nói lên điều gì cả; chúng phải được chuyển dịch (nôm na là cắt nghĩa). Việc chuyển dịch liên quan đến nhiều trở ngại, gồm thiên kiến thí nghiệm, sự lẫn lộn nhân quả và mẫu vật nghiên cứu không được thu thập một cách ngẫu nhiên (non-random sampling).
1- Vài chứng cớ sẽ bị bỏ rơi. Nếu chúng ta tập trung trong một lý thuyết độc nhất, chúng ta sẽ bỏ sót bất cứ dữ kiện nào không liên hệ đến tính xác thực của giả thuyết. Ví dụ:
Nếu chúng ta cho rằng không có ngôn ngữ Việt Nam mà chỉ có ngôn ngữ Đông Nam Á, chúng ta sẽ tập trung vào việc thu thập những chứng cớ giúp thiết lập hay bác bẻ giả thuyết vì chúng không thích đáng. Do đó chúng ta có lẽ bỏ sót sự kiện không liên hệ. Mặt khác, một trong những giả thuyết cho rằng ngôn ngữ Việt Nam và Trung Hoa có những liên hệ mật thiết hơn thì những khúc chiết khó giải thích (chẳng hạn 42/100 giống nhau thì 58/100 kia tại sao khác nhau?) trong ngôn ngữ Đông Nam Á sẽ không bị bỏ sót.
2. Chúng ta có thể tin tưởng một cách mù quáng vào giả thuyết của chúng ta vì cảm tính. Ý tưởng thương yêu súc vật không giới hạn trong việc tìm đáp án, dĩ nhiên là thế. Khi nào nó xảy ra, kẻ thương yêu súc vật bắt đầu tìm kiếm và chọn lọc chỉ những chứng cớ nâng đỡ giả thuyết của mình, bất kể hay vô tình gạt bỏ những dữ liệu chống lòng yêu thương súc vật của chúng ta.
Cho thí dụ, đây là một câu chuyện: Meta nuôi một con chó và sinh lòng yêu thương nó. Để con chó ngoài sân, đặt một tấm bảng: ”Đẩy cửa vào mà ăn cơm”, con chó biết đường vào nhà ăn. Meta làm một thí nghiệm khác. Cũng để con chó ngoài sân nhưng lần này Meta treo tấm bảng bằng Anh ngữ “Come this way for lunch”, con chó cũng biết đường vào nhà. Chưa hết, khi Meta bịt mắt con chó, vì không đọc được chữ, con chó không vào nhà. Meta kết luận rằng con chó của Meta thông thạo 2 ngôn ngữ, bất kể rằng chẳng để tấm bảng nào, nó cũng sục sạo tìm cho được đồ ăn. Trong tiềm thức, Meta không muốn làm thí nghiệm để tấm bảng không có chữ. Meta sợ giả thuyết của mình sai thì tội nghiệp con chó quá. Nó đi ngược với lòng thương yêu con chó của Meta. Ngoài ra, Meta lờ đi việc con chó không vào nhà vì khi bịt mắt, nó không nhìn thấy cửa ra vào chứ không phải không đọc được chữ.
II - Luật đề xuất và thử nghiệm giả thuyết
1. Giả thuyết phải biện minh mọi dữ kiện thích đáng. Một giải thích chỉ cắt nghĩa một phần dữ kiện hoặc trái ngược với một sự kiện chủ yếu, thì không phải là một giải thích thỏa đáng. Nên nhớ, đặc biệt lúc bắt đầu, mọi cắt nghĩa đều vướng những vấn đề và chứa đựng vài dữ kiện có vẻ đối nghịch. Sự thực được lọc lựa, và làm sáng tỏ hơn một khi ta có được những dữ kiện tốt hơn. Vì vậy không nên loại bỏ tất cả chỉ lưu lại những dữ kiện hoàn hảo. Biết đâu khi ta càng đào sâu vào công trình nghiên cứu, những dữ kiện có vẻ dư thừa ấy lại vừa vặn lọt vào trong lý thuyết của ta.
2. Những giải thích đơn giản thường đúng hơn những giải thích phức tạp. Đây là nguyên tắc của Occam's Razor. Nguyên tắc Occam's Razor như sau. Những thực thể không được bội thừa nếu không cần thiết. Sự cắt nghĩa đòi hỏi những xác định đơn sơ nhất thường là cái đúng. Nói cách khác, khi 2 hay nhiều cắt nghĩa đáp ứng được tất cả yêu cầu cho một cắt nghĩa thỏa đáng của cùng nhóm hiện tượng, cái đơn giản nhất chính là cái đúng. Luật này được William of Occam (also spelled Ockham) đề ra, một triết gia Anh thế kỷ 14. Nó không hoàn toàn đúng hẳn nhưng đó là ý tưởng hữu ích.
3. Nhiều giả thuyết thường đúng hơn ít. Nhiều sự việc có thể xảy ra; nhưng ít sự việc có lẽ xảy ra. Có thể những phi hành gia thượng cổ xây dựng kim tự tháp Ai Cập nhưng có lẽ người Ai Cập tạo nên. More probable explanations are usually to be preferred over less probable ones. Many things are possible; fewer things are probable. It is possible that ancient astronauts built the pyramids, but it is more probable that the Egyptians did.
4. Kết quả rút ra từ giả thuyết phải phù hợp với chứng cớ. Nếu bạn lập giả thuyết rằng một quả bom phá hủy một phi cơ và làm cho nó bị rơi, bạn phải kỳ vọng tìm thấy mảnh vụn quả bom như là kết quả của giả thuyết. Khi bạn bắt đầu đọc những sự kiện phù hợp với lý thuyết, có lẽ bạn không ngăn được ý tưởng :” Tại sao, phải, nó phải như vậy.” Tuy nhiên, khi bạn bỏ công nghiên cứu (hay ngay cả bỏ thì giờ tự tạo ra một lý thuyết) một vài đối thuyết – giả thuyết đầu đột nhiên kém thuyết phục. Giống như nhiều sự việc khác trong đời sống, khi bạn chỉ có độc nhất một chọn lựa, nó có vẻ là một chọn lựa đúng; nhưng khi bạn có nhiều chọn lựa, “khẩu vị của bạn thêm phần tinh tế. Kinh Thánh cũng có đoạn : “Kẻ đầu tiên trình bày trường hợp của mình có vẻ đúng, cho đến khi người khác bước ra và nhận xét anh ta” (Proverbs 18:17).
Khi bạn bắt đầu suy tưởng một giả thuyết cho một chuỗi dữ kiện, hãy tự hỏi: “Có những dữ kiện nào khác liên hệ có thể biện minh cho kết quả?
III - Những thủ thuật tìm đáp án
1. Bỏ thì giờ xem xét và thăm dò vấn đề thật kỹ trước khi bắt tay vào việc tìm giải pháp. Thông thường, hiểu vấn đề ắt giải quyết được vấn đề.
2. Chia vấn đề thành những phần nhỏ thường dễ tìm ra giải pháp hơn. Giải quyết từng vấn đề riêng biệt.
3. Manh mối giải quyết vấn đề phải to lớn và dễ thấy ở khắp mọi nơi.
4. Bạn luôn có thể làm được điều gì đó.
5. Một vấn đề không phải là một điều trừng phạt; nó là một cơ hội gia tăng hạnh phúc nhân loại, một dịp may chứng tỏ năng lực của bạn.
6. Công thức của một vấn đề khẳng định tầm mức chọn lựa : câu hỏi của bạn quyết định câu trả lời bạn lãnh nhận.
7. Cẩn thận đừng tìm một đáp án cho đến khi hiểu rõ vấn đề và cẩn thận đừng chọn một giải pháp cho đến khi bạn có đủ mọi phương án chọn lựa.
8. Phát biểu sơ khởi của một vấn đề thường phản ảnh một giải pháp nặng định kiến.
9. Sự chọn lựa càng phong phú (ý tưởng, các giải pháp khả thí…) cho phép bạn chọn cái tốt nhất, hợp lý nhất vì chọn một món trong một sự chọn lựa chỉ có một thì không phải là một chọn lựa.
10. Người bỏ công sức hoàn tất ý tưởng và giải pháp của họ tốn công sức hơn người bỏ công sức hoàn tất ý tưởng, giải pháp của người khác.
9. Sự chọn lựa càng phong phú (ý tưởng, các giải pháp khả thí…) cho phép bạn chọn cái tốt nhất, hợp lý nhất vì chọn một món trong một sự chọn lựa chỉ có một thì không phải là một chọn lựa.
10. Người bỏ công sức hoàn tất ý tưởng và giải pháp của họ tốn công sức hơn người bỏ công sức hoàn tất ý tưởng, giải pháp của người khác.
11. Nên nhớ điều quan trọng nhất trong việc khảo cứu, tìm giải pháp. Một giải pháp tinh xảo, tân kỳ nhưng có hại mặt xã hội không phải là giải pháp tốt. Ví dụ chế ra thuốc trị bịnh AIDS bằng máu trẻ sơ sinh chắc không được hoan nghênh.
12. Khi tình trạng chót đã rõ ràng nhưng tình trạng hiện tại còn mờ mịt, hãy lần dò ngược lại.
13. Kẻ chần chờ là người kết thúc sau chót.
13. Kẻ chần chờ là người kết thúc sau chót.
14. Bác bỏ một vấn đề không giải quyết vấn đề đó. Thực ra, nó làm cho vấn đề đó tồn tại và ngăn trở việc tìm giải pháp.
15. Giải quyết vấn đề thực sự hiện hữu, chứ không phải triệu chứng của vấn đề, không phải vấn đề bạn đã có đáp án, không phải vấn đề bạn mong muốn hiện hữu và không phải vấn đề vài người nào đó tin rằng hiện hữu.
16. Một nhà chế tạo thi hành một kế hoạch; một nhà sáng tạo sản xuất một kế hoạch.
17. Sự sáng tạo là xây dựng cái mới từ cái cũ bằng nỗ lực và trí tưởng tượng.
17. Sự sáng tạo là xây dựng cái mới từ cái cũ bằng nỗ lực và trí tưởng tượng.
Kết luận
Tóm lại, có 2 nguyên do dẫn đưa đến việc đề xuất và gieo rắc những lý thuyết sai lạc: tuyên truyền phục vụ cho một ý đồ nào đó và nghiên cứu thiếu cơ sở luận lý, không nắm vững phương pháp luận. Cả 2 nguyên do đều né tránh những sự kiện bất lợi cho lý thuyết của mình và cả hai cùng có hại đến tri thức con người.
Về mặt tuyên truyền, ta thấy thể chế nào cũng tuyên truyền nhưng đặc biệt ở những quốc gia cố bám vào học thuyết chính trị, ý thức hệ nhảm nhí nhằm biện minh cho độc quyền cai trị đất nước, và các vị đối lập khác cho chúng ta thấy cái nguy hiểm của việc tạo lập bừa bãi các thuyết sai lầm phục vụ cho những mục đích riêng tư.
Về mặt thiếu chuyên môn cũng thế. Phải cẩn thận trong mọi đề tài nghiên cứu. Phải hiểu kỹ vấn đề và làm việc theo một quy trình có phương pháp khoa học.
No comments:
Post a Comment