Menu ngang

Tuesday, February 15, 2011

Sonata Arctica

Sonata (có gốc từ sonare trong tiếng latin có nghĩa là "âm thanh") là một bản nhạc cho một nhạc cụ (đôi khi là hai). Có sonata cho đủ thứ nhạc cụ, nhiều nhất là cho piano.
Được thành lập năm 1996 ở bắc Phần Lan và biết đến lần đầu tiên với tên Tricky Beans qua 3 demo (Friend till the End, Agre Pamppers, Peace Maker).
Chơi 2 lần trong 1 show truyền hình về các band của Phần Lan. Sau 1 số thay đổi nhân sự, năm 1997 đổi tên thành Tricky Means, bắt đầu được cộng đồng Metal biết đến.
Năm 1999, Tricky Means ghi âm demo “Full Moon” ở Tico Tico Studio (tại trị trấn quê nhà Kami). Đội hình lúc đó gồm Tony (vocals/keys), Jani (guitars), Tommy (drums), và Janne (bass). Demo này như 1 thử nghiệm của band với dòng Heavy Metal. Lối chơi nhanh kết hợp với keyboad + giọng vocals trong & cao đặc trưng ra đời. Demo này nhanh chóng thu được thành công lớn tại Phần Lan, từ đây band đổi tên thành Sonata Arctia, theo các thành viên của band là bản sonat bắc cực.

Single đầu tiền ra đời năm 1999 – “UnOpened”. Đánh dấu bước chuyển mình sang Power Metal. Mọi thứ không bao giờ bắt đầu 1 cách suôn sẻ, có 1 vài trục trặc nhỏ trong khâu sản xuất & phát hành, mặc dù phát hiện kịp thời nhưng trước đó 200 bản đã được bán ra (sau này đã trở thành hàng độc ^^!)
Mùa thu năm 1999, album đầu tiên ra đời – Ecliptica, ngay lập tức thu được thành công cả trong và ngoài nước:
Ecliptica - 1999

01. Blank File
02. My Land
03. 8th Commandment
04. Replica
05. Kingdom For A Heart
06. Fullmoon
07. Letter To Dana
08. Unopened
09. Picturing The Past
10. Destruction Preventer
11. Mary-Lou [Japanese bonus]


Đây là 1 album đậm chất power, lối chơi tốc độ lôi cuốn đầy giai điệu, đặc biệt là giọng ca của Tony Kakko.
Sau thành công của Ecliptica, trưởng nhóm Tony Kakko quyết định tập trung vào hát chính (trước đây Kakko kiêm luôn keyboard). Người gia nhập band để hỗ trợ cho Kakko trong vai trò keyboard là Mikko Harkin. Thay đổi này làm cho band đánh sung hơn trong liveshow. Nó đánh dấu sự đặc trưng của SA: 2 keyboard.

Sự nổi tiếng tăng nhanh vào cuối năm 1999 và đầu năm 2000. Sau thành công của Ecliptica, SA đã được chọn là ban nhạc chơi cùng trong tour diễn vòng quanh châu Âu của Stratovarius, vượt qua 32 band từ 15 công ty thu âm. Tour diễn bắt đầu vảo tháng 4 năm 2000 với Strato và Rhapsody. Kéo dài trong 2 tháng, Sonata đã chơi hơn 30 gigs ở 10 nước, đi qua hàng nghìn kilomet.Tiếp theo tour diễn vô cùng thành công là sự phát hành của CD Successor. Đĩa mới này bao gồm 2 track chưa từng phát hành, 2 track cover cho album tribute sắp tới, một vài live tracks từ Provinssi Rock và một cái được biên tập từ Ecliptica.
Có 1 sự thay đổi nhỏ về nhân sự, Janne Kivilahti có quyết định rởi bỏ band vì lý do cá nhân. Buổi biều diễn cuối cùng của Janne diễn ra ở Kami vào 30/6/2000. Janne được thay thế bởi Marko Paasikoski, người là thành viên sáng lập của Tricky Beans. Với sự quen thuộc với toàn bộ band, sự thay đổi rất êm ả và nhẹ nhàng, gần như ko có gì xáo trộn.
Năm 2000 mang đến không chỉ là tour diễn lớn, Sonata được chọn là ứng cử viên cho danh hiệu ban nhạc mới xuất sắc nhất do hiệp hội công nghiệp thu âm Phần Lan bầu chọn trong gala trao giải hàng năm của họ, Emma. Thiên niên kỉ mới cũng rất may mắn với Sonata. Mùa xuân năm 2001, SA thực hiện 2 buổi biểu diễn trong Monster of the Millennium 2001 tour.
Trong khoảng thời gian từ mùa xuân năm 2000 -> mùa đông 2001, band tập trung ghi âm album thứ 2: Silence một lần nữa tất cả các ca khúc đều do Tony Kakko sáng tác:


Silence - 2001
01. ...Of Silence
02. Weballergy
03. False News Travel Fast
04. The End Of This Chapter
05. Black Sheep
06. Land Of The Free
07. Last Drop Falls
08. San Sebastian [Revisited version]
09. Sing In Silence
10. Revontulet
11. Tallulah
12. Wolf & Raven
13. Respect The Wilderness [Japanese bonus]
14. The Power Of One


Vẫn lối chơi hào nhoáng quyến rũ với Black Sheep, Weballegry. Sâu lắng với Sing in silence, nói về cô gái với căn bệnh hiểm nghèo, không muốn bản thân là gánh nặng cho cha mẹ, những người yêu thương cô bằng tất cả nhưng gì họ có… Lời cuối cùng tuyệt vọng của người cha thật sự gây ấn tượng rất mạnh “How can I erase your pain and aid you
When Death wants to kiss you and you want kiss Him back...”
Last drop falls lại là 1 bản tình ca buồn nữa, bài này có tiếng bass chậm, đều làm nền khá lạ và giọng của Kakko không thể hay hơn. Power of One & Respec the wilderness thật sự là 1 bản power sáng giá, từ lời ca đến giai điệu, đặc biệt tiếng trống trong bài này rất khỏe, chẳng hề kém các tay trống của thrash. Và nổi bật vẫn là âm thanh của 2 keyboard, khi thì đuổi nhau với tốc độ đáng kinh ngạc, khi thì như cuộn vào nhau đầy mê hoặc. Nhưng cũng phải thừa nhận về chất Power thì album này đứng sau Ecliptica.

Album đầu tiên Ecliptica đã phát hành được hơn 30000 bản tại Nhật. Trong thời gian tiếp theo band nhạc khá bận rộn với 28 show diễn, qua 12 nước và kết thúc tại Helsinki Finland. Đồng thời cho ra mắt Single “Last drop falls”, khiến cái tên Sonata Arctica được biết đến rộng rãi hơn. Đã có cả những show diễn tại Brazil và Chile.
Tháng 4/2001 Album Songs Of Silence ra đời:


Songs Of Silence - Live In Tokyo [Live] - 2002
01. Intro
02. Weballergy
03. Kingdom For A Heart
04. Sing In Silence
05. False News Travel Fast
06. Last Drop Falls
07. Respect The Wilderness
08. Fullmoon
09. The End Of This Chapter
10. The Power Of One [Japanese bonus]
11. Replica
12. My Land
13. Black Sheep
14. Wolf & Raven
15. Blank File [Japanese bonus]
16. Land Of The Free [Japanese bonus]
17. PeaceMaker [Studio version] [Japanese bonus]

Đây là album live được thực hiện tại Tokyo, phát hành tại cả châu Á và châu Âu, như 1 lời cảm ơn của band vơi sự ủng hộ của các fans. Sau show diễn cuối cùng trong tour Silenc tại Jorisrock/2002, Mikko Harkon rời nhóm vì lí do cá nhân. Band quyết định thông báo tìm kiếm thành viên mới và nhận được rất nhiều lời đề nghị từ khắp thế giới. Cuối cùng cả nhóm đã quyết định bỏ phiếu cho Henrik Llingenberg, 1 tay chơi keyboard khá nổi ở Phần Lan, đã từng chơi cho Silent Voices & Requiem.
Tuy nhiên album thứ 3 Winterheart's Guild, người đảm nhận vai trò keyboard cùng Tony kakko không phải là Henrik mà chính là Jens Johansson của Stratovarious, trong vai trò khách mời. Jens solo 4 bài trong album này:


Winterheart's Guild - 2003
01. Abandoned, Pleased, Brainwashed, Exploited
02. Gravenimage
03. The Cage
04. Silver Tongue
05. The Misery
06. Victoria's Secret
07. Champagne Bath
08. Broken
09. The Rest Of The Sun Belongs To Me [Japanese bonus]
10. The Ruins Of My Life
11. Draw Me

Chính thức xuất hiện cùng SA trong show ngày 21/2/2003 ở Torino. Henrik đã không làm các fans thất vọng và chứng tỏ mình hoàn toàn xứng đáng. Ngay sau đó SA đã có 1 show diễn lớn ở Tavastia – 1 rock club huyền thoại ở Phần Lan.
Chiếm vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng Phần Lan ngay ngày đầu tiên phát hành, và chỉ chịu đứng sau single của Darude phát hành cùng thời điểm, Single Victora’s secret thực sự là 1 thành công lớn của SA, Nhưng trong 2 tuần sau, Victoria’s secret đã chiếm vị trí đầu bảng, bỏ lại sau những cái tên như Eminem, Negative và The Ramus. Thành công nối tiếp thành công, ngay tuần đầu phát hành album Winterheart’s Guild đã chiếm vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng của Phần Lan, vượt qua The Rasmus, Eminem, T.A.T.U và cả Stratovarius, 5 tuần liền nằm trong top 10. Sau thắng lợi rực rỡ của album này, ban nhạc quyết định tổ chức 1 tour với 8 show quanh Phần Lan và 4 show tại Phap. Tham gia Sweden Rock Festival cùng những tên tuổi như QueenSryche, Kamelot, Whitesnake…
Năm 2004 SA được chọn chơi cùng Iron Maiden trong show diễn tại Nhật. Trong năm nay, SA nhận được đề cử cho album “hardrock/heavy Metal” hay nhất tại lễ trao giải Emma Award, các band khác được đề cử là Children of Bodom, HIM và Kotiteollisuu. Album thứ 4 cũng ra đời trong năm nay


Reckoning Night - 2004
01. Misplaced
02. Blinded No More
03. Ain't Your Fairytale
04. Reckoning Day, Reckoning Night...
05. Don't Say A Word
06. The Boy Who Wanted To be A Real Puppet
07. My Selene
08. Wildfire
09. White Pearl, Black Oceans...
10. Shamandalie
11. Jam [hidden track]
12. Wrecking The Sphere [Japanese bonus]


Album này đã lọt vào bảng xếp hạng của rất nhiều nước ngay sau khi phát hành. 2 bản single và EP của bài Don’t say a word đã chiếm 2 vị trí trong top 5 ở Phần Lan, single chỉ chịu đứng sau Children of Bodom. Sau album này, SA đã nhận được lời đề nghị từ Nightwish tham gia tour diễn vòng quanh châu Âu, tội gì từ chối.
Từ 2004 đến nay SA vẫn tham gia khá nhiều các show diễn lớn, ra 1 album collection từ khi bắt đầu sự nghiệp, 1 album live, đặc biệt là DVD For the sake of Revenge (2006) (cái này ko biết có ở VN không >”<). Và tập trung cho album Unia, sẽ phát hành vào 25/5 này, đây là list track của album này


Unia - 25 May 2007
 
01. In Black And White
02. Paid In Full
03. For The Sake Of Revenge
04. It Won't Fade
05. Under Your Tree
06. Caleb
07. The Vice
08. My Dream's But A Drop Of Fuel For A Nightmare
09. The Harvest
10. To Create A Warlike Feel [Digi-Pak bonus]
11. The Worlds Forgotten, The Words Forbidden
12. Fly With The Black Swan
13. Good Enough Is Good Enough
14. The Follow [Japanese bonus]
15. Out In The Fields [Japanese bonus] [Gary Moore cover]
16. My Dream's But A Drop Of Fuel For A Nightmare [Japanese bonus] [Instrumental version]

No comments:

Post a Comment

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...
Blogger Gadgets
BACK TO TOP