Chương 1
Hai nhân vật trung tâm của câu truyện: Ralph de Bricassart, một linh mục có đầy đủ ưu thế của một người đàn ông lý tưởng nhưng đầy tham vọng, bị dằn vật giữa con đường đến Tòa thánh và tình yêu; nhưng cuối cùng cũng phải đầu hàng với số phận. Còn nhân vật thứ hai là nàng Meggie duyên dáng và thông minh, đầy bản năng phụ nữ, khát khao cuộc sống làm mẹ, đã phải trả giá cho một lần chọn lựa sai lầm trước khi đến được với người mình yêu.
1915 - 1917
Meggie
Ngày 8 tháng 12 năm 1915, Meggie Cleary bước vào năm thứ tư của tuổi đời. Dọn dẹp xong buổi ăn sáng, không nói một lời và hơi đột ngột, mẹ của Meggie đặt lên hai tay cô một cái hộp gói trong giấy màu hạt dẻ rồi bảo cô bé ra ngoài sân. Nghe lời mẹ, Meggie ra ngồi ngay trước cửa nhà, sau bụi cây đậu chổi, rồi vội vàng mở chiếc hộp. Mấy ngón tay cô bé vụng về, hơn nữa, giấy gói rất dày. Nhưng ngay lúc đó, một mùi thơm thoang thoảng làm Meggie nghĩ đến cửa hàng bách hóa Wahinẹ Cô bé đoán ngay rằng, dù bên trong chứa đựng thứ gì đi nữa, chắc chắn món quà ấy cũng được mua từ cửa hàng bách hóa chứ không phải do ở nhà làm hay do ai đó đã chọ Mở hết lớp giấy bên ngoài, Meggie nhận ra một cái gì đó thật mịn và óng ánh ở góc hộp - Cô bé xé toạc ra.
- Agnès! Ồ Agnès! - cô bé thì thầm một cách âu yếm, mắt sáng lên khi nhìn thấy một con búp bê nằm êm ái trong mớ giấy vụn.
Đúng là một phép mầu. Một phép mầu thật. Từ trước đến nay Meggie mới đến cửa hàng Wahine chỉ một lần thôi, hồi tháng 5 vừa rồi, cô bé được cha mẹ thưởng vì đã tỏ ra rất ngoan.
Lần đó trên chiếc xe bò có mui, cô bé phải hết sức cố gắng mới ngồi yên được bên cạnh mẹ. Vui quá, Meggie không kịp nhìn thấy gì và cũng không nhớ gì cả, ngoài Agnès, con búp bê tuyệt đẹp mắc chiếc váy xòe rộng bằng xa tanh hồng kết ren chung quanh, được đặt trên quầy của cửa hàng bách hóa. Ngay lúc ấy, Meggie kín đáo đặt tên Agnès cho con búp bê xinh đẹp, cái tên khá lịch sự mà cô bé biết. Vậy mà nhiều tháng sau, lòng thèm muốn ấy của Meggie cũng chỉ là mơ ước. Meggie chưa bao giờ có búp bê và không hề tưởng tượng rằng một bé gái như mình ngày nào đó sẽ có một con búp bệ Lâu nay cô bé thường vui thích với những thứ đồ chơi mà các anh trai của cô vứt bỏ, chẳng hạn như những cái còi, cái ná bắn thun và những hình lính xù xì. Làm sao cô dám mơ ước được chơi với Angès.
Tay vuốt nhẹ lên chiếc áo của búp bê, chiếc áo đẹp nhất trong số những áo mà cô béthấy phụ nữ thường mặc, Meggie bế nhẹ Angès lên. Tay và chân của búp bê đều cử động được, cổ và thân mình cũng thế. Màu tóc vàng óng ánh có điểm những hạt trai, khuôn mặt làm bằng sứ được vẽ rất khéo và đẹp. Mắt búp bê màu xanh, sinh động đến kinh ngạc. Đôi mắt ấy sáng lên qua hai hàng mi cong vút. Khi đặt Angès nằm xuống, Meggie khám phá ra rằng búp bê còn biết nhắm mắt lại. Phía trên gò má cao màu hồng có một nốt ruồi. Hai môi hơi hé ra cho thấy những chiếc răng màu trắng thật nhỏ. Meggie đặt búp bê trên đầu gối, tìm một chỗ ngồi êm ái rồi nhìn ngắm một cách say mê.
Trong khi Meggie vẫn ngồi như thế thì sau bụi cây đậu chổi, Jack và Hughie đang chơi đùa bên cạnh đám cỏ mọc cao sát hàng rào. Cả hai nhìn thấy mái tóc màu hung đặc biệt của Meggie, màu tóc đúng là của dòng họ Cleary, ngoại trừ Frank là có tóc màu khác.
Jack vừa thúc cùi chỏ vào anh mình vừa liến thoắng chỉ Meggiẹ Cả hai đang chơi trò quân lính truy lùng một thổ dân Maori phản bội. Meggie không để ý đến hai anh và vẫn đắm nhìn Agnès thân yêu, miệng huýt gió nho nhỏ những âm thanh quen thuộc.
- Meggie, mày đang cầm gì đó? Jack vừa la to vừa nhào tới - Đưa tao xem.
- Ừ, đưa xem.
Hughie nói thêm vào, vừa cười khúc khích vừa tìm cách chặn Meggie không cho chạy thoát.
Cô bé ôm chặc búp bê vào ngực và lắc đầu.
- Không, búp bê của em. Món quà sinh nhật của em.
- Cứ đưa bọn tao xem. Bọn tao chỉ muốn xem qua thôi.
Trong niềm vui và hãnh diện vừa được mẹ tặng quà, cô bé đưa búp bê ra khoe:
- Các anh xem này, nó đẹp quá. Nó tên Agnès đó.
- Agnès? Agnès? Giọng Jack chế diễu. Tên gì mà tồi thế. Tại sao không gọi nó là Margaret hay Betty?
- Không thể gọi khác hơn vì nó là Agnès!
Hughie nhìn cánh tay con búp bê cử động, cậu ta huýt gió và nói:
- Jack nhìn xem, tay nó cử động được đấy.
- Cử động làm sao? Đưa tao xem.
- Không! Cô bé la lên và lại ôm búp bê sát vào ngực, nước mắt sắp trào ra. - Không, các anh làm hư búp bê của em... A, Jack, đừng đụng vào nó, anh sẽ làm gã búp bê của em mất.
Hai bàn tay rám nắng, dơ bẩn của Jack chụp lên cổ tay Meggie, siết thật mạnh.
- Đừng mè nheo nữa, tao mách với anh Bob bây giờ.
Jack siết mạnh hai cổ tay của Meggie, trong khi Hughie túm lấy chiếc váy của búp bê kéo ra.
- Đưa đây - giọng Jack nhỏ nhẹ lại. Nếu không, tao sẽ siết mạnh đau lắm đó.
- Không, không, Jack! Em năn nỉ anh. Anh làm hỏng búp bê bây giờ. Em van anh để cho nó yên. Đừng lấy của em...
Dù hai tay bị siết càng lúc càng mạnh, cô bé vẫn không chịu buông con búp bê ra. Meggie khóc to lên, chân đá vào Jack.
- Đã lấy được rồi! Hughie reo lên đắc thắng khi búp bê vừa vuột khỏi tay Meggiẹ Chiếc áo ngoài và bên trong cả chiếc quần lót cũng đều tơi tả. Con búp bê hoàn toàn trần trụi. Chúng nắm hai chân búp bê kéo ngược ra phía sau, còn cái đầu chúng quay đủ hướng và không thèm chú ý đến Meggie khóc một mình. Trong gia đình họ Cleary vẫn thế, ai mà không có khả năng đối phó thì chịu chứ không có ai hổ trợ hay thương hại. Nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho cả các cô gái. Từng chùm tóc vàng của con búp bê bị vứt ra rải đầy dưới đất, còn các hạt trai nhấp nhánh văng mất trong cỏ, một chiếc giày dơ bẩn vô tình dẫm lên chiếc váy nằm trên đất. Meggie quỳ gối xuống, hai tay run rẩy lượm lại những mảnh áo quần bé nhỏ của búp bê, rồi mò mẫn trong đám cỏ mong tìm lại những hạt trai. Nước mắt làm cho cô bé không còn nhìn thấy gì nữa, trái tim đau nhói một cách lạ lùng, vì rằng từ trước đến nay, chưa bao giờ cô bé lại cảm nhận một điều gì đó có thể gọi là đau đớn
Chương 2
Frank nhúng thanh sắt đỏ vào nước lạnh gây nên một tiếng xèo, rồi đứng thẳng người lên. Anh không còn đau lưng nữa. Có lẽ vì đã quen công việc ở lò rèn. Chỉ cần sáu tháng thôi - cha anh nói như thế. Nhưng Frank hiểu là biết bao nhiêu năm tháng trôi qua từ khi anh làm quen với nơi đây; anh đã đếm thời gian trong oán giận và hận thù. Quẳng chiếc búa vào thùng, bàn tay run run, Frank vuốt ngược mái tóc phủ kín vầng trán rồi cởi tấm tạp đề cũ mèm bằng dạ Chiếc áo sơ mi nằm chờ Frank trên đống rơm, anh bước đi nặng nề, dừng lại một lúc và ánh mắt mất hút qua một khe hở của nhà khọ Mắt anh đen, mở trừng trừng nhìn về hướng ấy.
Dáng người hơi thấp nhỏ, khoảng một thước sáu mươi, Frank gầy như những đứa con trai đang lớn, nhưng vai và tay trần của anh đều gân guốc vì cầm búa lâu ngày. Nước da hơi xanh, mịn, bóng loáng mồ hôi. Tóc và cặp mắt đen lánh có cái gì đó xa lạ vì rằng đôi môi dày và cái mũi thô thẳng không phảng phất chút nào những nét chung nhất của gia đình này. Ở mẹvà Frank hình như có dòng máu Maorị Frank gần 16 tuổi, Bob 11, Jack 10, Hughie 9, Stuart 5 và cô bé Meggie... Frank nhớ ra hôm nay ngày 8 tháng 12 Meggie vừa tròn 4 tuổi. Anh mặc áo vào và rời nhà kho.
Căn nhà của gia đình Cleary nằm trên một ngọn đồi cao hơn nhà kho và chuồng ngựa chừng ba mươi mét. Hầu hết nhà cửa ở Tây Tây Lan được xây bằng gỗ, không có lầu, dài và rộng để khi có động đất thì không bị sập tất cả. Chung quanh nhà mọc đầy những cây đậu chổi, mùa này trĩu nặng những bông vàng; cỏ mọc bao la, xanh rì như phần nhiều các đồng cỏ nuôi súc vật. Ngay giữa mùa đông, có những mảng tuyết suốt cả ngày không tan vì rợp bóng mát, cỏ vẫn không vàng úa. Rồi mùa hè dài và dịu dàng mang trả lại cho thiên nhiên một màu xanh đậm. Mưa cũng không quá nặng hạt để có thể làm gã cả những loài cây mảnh khảnh nhất. Tai họa ở Tây Tây Lan gầm lên từ trong lòng đất chứ không bao giờ sa xuống từ trên trời. Bao giờ cũng thế, con người sống ở nơi đây như luôn ở trong một đợi chờ thấp thỏm trước sự chuyển động, tưởng chừng nghe thấy dưới chân mình những tiếng âm thanh không ngớt vang dội từ lòng đất. Vì rằng bên trong lòng đất ẩn chứa một sức mạnh kinh hoàng, một sức mạnh có biên độ dữ dội đến đỗi cách đấy ba mươi năm, một quả núi nguyên vẹn đã bị xóa mất hoàn toàn.
Dù thế, đất ở đây thật hiền hòa, hiếu khách. Từ nhà nhìn ra xa là một cánh đồng xanh như màu ngọc bích trên chiếc nhẫn đính hôn của Fiona Clearỵ Đường viền của các ngọn đồi vẽ lên nền trời màu xanh nhạt; ngọn núi Egmont cao ba ngàn mét như muốn đâm thủng các tầng mây. Sườn núi hai bên khoác màu trắng của tuyết hết sức cân đối khiến cho Frank vội vã vì anh nhớ lời cha dặn không được rời bỏ lò rèn. Lệnh của cha anh lúc nào cũng nghiêm khắc. Đi vòng vào nhà, Frank bắt gặp mấy đứa em.
Chính Frank đã đưa mẹ đi Wahine để mua búp bê cho Meggie, tuy nhiên anh đã phải tự hỏi điều gì đã phải thúc đẩy mẹ anh chịu tiêu xài như thế. Với mẹ, một món quà sinh nhật phải là một thứ gì có ích lợi cho cuộc sống hiện tại; gia đình không dư dả tiền để phung phí. Không bao giờ mẹ anh mua đồ chơi cho bất cứ ai để làm quà sinh nhật. Các con của bà nhân ngày này đều nhận được quần áo. Ngày sinh nhật hoặc Noel là dịp để sắm thêm món gì đó cho tủ áo quần còn rất trống trải. Có lẽ mẹ đã bắt gặp cái nhìn thèm muốn của Meggie trong lần ra tỉnh. Khi Frank hỏi mẹ về quyết định bất thường này, bà chỉ nói đôi ba câu về niềm mong ước của mấy cô bé có được con búp bê, rồi bà chuyển sang đề tài khác.
Giữa lối đi, Jack và Hughie đang giằng co, cả hai đứa đang nắm tay chân con búp bê một cách thô bạo. Frank chỉ nhìn thấy Meggie từ phía sau lưng, cô bé đang đứng như trời trồng nhìn hai anh mình dằn vặt Agnès.
- Đồ qui? sứ, bẩn thỉu. Frank quát.
Jack và Hughie nhanh chân, biến ngay và bỏ lại con búp bệ Khi Frank nổi nóng thì khôn hồn bỏ đi nơi khác.
- Tao mà bắt gặp tụi bây rớ vào con búp bê lần nữa, thì tụi bây lảnh ngay một thanh sắt đỏ vào mông, đồ thối tha! Frank hét lên.
Frank khom người xuống, hai tay đặt lên vai Meggie lay nhẹ.
- Thôi! thôi! có gì đâu mà khóc! Đừng sợ. Tụi nó bỏ đi hết rồi và không bao giờ dám sờ vào con búp bê của em đâu. Anh hứa với em mà. Bây giờ em hãy tặng cho anh một nụ cười sinh nhật đi nào...
Mặt cô bé như sưng, mí mắt phồng lên. Cô nhìn Frank trân trân bằng đôi mắt nâu, mở to, chứa đầy bi kịch vừa xảy ra và cô bé không nói nên lời. Frank lấy từ trong túi quần một chiếc khăn bẩn, lau mặt em gái một cách vụng về, rồi đặt khăn lên mũi bảo: - Hỉ mũi đi cưng.
Cô bé nghe lời, hết khóc nhưng tiếng nấc vẫn chưa dứt.
- Frank - Frank - Frank! Mấy ảnh... đã lấy... Agnès của em! Tóc của Agnès bị rứt ra hết rồi và bị mất cả những hạt trai xinh đẹp. Frank, mấy hạt trai đó rơi trong cỏ đây nè... nhưng em tìm không ra.
Rồi cô bé lại khóc. Giọt nước mắt rơi xuống tay Frank. Anh đưa tay lên nhìn và lấy lưỡi liếm.
- Bây giờ phải tìm lại mấy hạt trai. Nhưng em sẽ không tìm thấy nếu cứ khóc mãi. Còn chuyện này nữa, sao em vẫn ngọng nghịu như một em bé mới biết nói? Hỉ mũi nữa đi và nhặt Agnès tội nghiệp của em lên. Nếu em không mặc ngay quần áo vào cho nó, nó sẽ bị cảm nắng bây giờ.
Frank đặt Meggie ngồi xuống bên lối đi rồi dịu dàng trao cho cô bé cho búp bệ Xong cậu ta vẹt cỏ đi tìm hạt trai, không mấy chốc vừa reo lên một cách đắc thắng vừa giơ cao cho Meggie xem hạt trai mới tìm được.
- Đây mới chỉ là hạt thứ nhất. Em chờ xem hai anh em mình sẽ tìm lại đủ tất cả.
Meggie nhìn người anh cả của mình bằng đôi mắt ngưởng mộ trong khi Frank tiếp tục vẹt cỏ, thỉnh thoảng đưa lên cao khoe một hạt trai vừa tìm được. Bây giờ Meggie bỗng nhớ lại làn da của Agnès rất mỏnh dễ bị ánh mặt trời thiêu đốt, thế là cô bé chăm chú lo mặc quần áo lại cho búp bệ Thật ra búp bê cũng không mang một vết thương nào đáng kể, tóc chỉ rối lên, tay chân dơ bẩn nhưng vẫn cử động được bình thường. Trên mái tóc của Meggie ở mỗi bên có chiếc lược cài, cô bé lấy xuống một cái để chải tóc cho búp bê.
Vụng về, cô bé làm một chiếc nơ lớn trên đầu của Agnès bung ra. Thảm kịch. Tất cả tóc tai Agnès đều sút hết và dính trên chiếc lược cài. Phía trên cái trán rộng của búp bê chẳng có gì khác. Không có đầu, không có xương sọ Chỉ có một lỗ trống tác hoác. Meggie run rẩy gần như hoảng hốt, nhưng mắt vẫn nhìn vào phía trong lỗ trống. Những đường nét lồi lõm của mắt, mũi, miệng nhìn từ bên trong thật khiếp đảm, nhất là hai con mắt của Agnès chỉ là hai lỗ sâu hoắm, có một sợi dây kẽm xuyên qua...
Tiếng hét chát chúa của Meggie không phải là tiếng hét của trẻ thợ Meggie quăng Agnès xuống đất rồi tiếp tục la, hai tay ôm mặt, run rẩy. Frank đến gỡ các ngón tay của Meggie rồi bế em gái vào lòng, đặt đầu cô bé vào chỗ êm ả nhất giữa cổ và vai mình. Cô bé càng thu mình sát vào Frank, tìm kiếm nơi người an niềm an ủi, cho đến lúc cơn xúc động giảm xuống, cô bé mới ngửi thấy cái mùi dể chịu từ thân người của Frank, đó là mùi ngựa, mùi mồ hôi và sắt nung đỏ.
Khi Meggie yên lòng trở lại, Frank hỏi em gái của mình nguyên do của sự hoảng hốt. Anh ta nhặt búp bê lên và đau xót nhìn thấy cái đầu trống rỗng và cố nhớ xem trong cái thế giới tuổi thơ của mình có bao giờ xảy ra nổi khiếp sợ lạ lùng như thế không. Anh nhớ lại hình ảnh đáng ghét lởn vởn như những bóng ma, những tiếng nói xì xào và những cái nhìn ghét bỏ. Còn gương mặt của mẹ nhăn nhó, khắc khổ, bàn tay của mẹ run rẩy nắm chặt lấy tay mình, người căng thẳng.
Còn Meggie đã thấy gì mà hoảng sợ như thế? Anh biết rằng Meggie sẽ ít hoảng hốt hơn nếu Agnès đáng thương bị chảy máu khi tóc bị rứt ra. Dù cho máu có thật. Vì rằng trong gia đình họ Cleary không có tuần nào là tránh được chuyện người này hay người nọ bị đổ máu.
Meggie nói thật nhỏ:
- Em sợ hai con mắt của nó - Trong khi nói, Meggie không dám nhìn con búp bê.
- Không Meggie, đừng sợ, nó đẹp tuyệt, một kỳ quan.
Frank cúi mặt vào mái tóc của em gái - mái tóc đẹp, dày và sáng rực. Phải mất nửa tiếng đồng hồ vỗ về, Frank mới thuyết phục được Meggie chịu quay lưng lại nhìn Agnès và thêm một khoảng thời gian như thế để dám nhìn thẳng vào cái lỗ trống trên đầu búp bệ Frank chỉ cho em xem hai con mắt của búp bê động đậy như thế nào, bằng cách nào mà hai mắt mở ra và khép lại.
- Thôi bây giờ đã đến lúc anh em mình phải vào nhà. Frank bế Meggie bằng một cánh tay, con búp bê đặt giữa ngực Frank và ngực Meggiẹ Mình sẽ nhờ mẹ chữa lại con búp bệ Mẹ sẽ giặt, ủi lại quần áo cho nó và tìm cách dán lại bộ tóc. Còn anh sẽ đính lại hạt trai bằng những cây kim găm, chắc chắn sẽ không bao giờ bị rơi ra nữa, mặc tình cho em muốn chải kiểu tóc nào cho nó cũng được.
Fiona Cleary đang ở trong bếp gọt khoai. Đó là một người đàn bà có nước da hơi nhợt nhạt, người thấp, nhưng gương mặt khá nghiêm và cứng rắn. Bà có một dáng đẹp, một thân hình mảnh khảnh dù đã sáu lần sinh. Chiếc áo dài vải trúc bâu gần chấm đất, thật sạch; một chiếc tạp dề lớn màu trắng, hồ cứng, phía trên được buộc quanh cổ, phía dưới ôm thân người và cột lại bằng một cái nơ thắt sau lưng thật gọn và đẹp. Từ sáng đến chiếu tối, bà ở trong bếp và ở khu vườn phía sau nhà; đôi giày ống ngắn màu đen rất bẩn của bà chỉ có một con đường quen thuộc lui tới bếp đến chỗ giặt quần áo, từ vườn ra đến sào phơi quần áo rồi quay trở lại bếp.
Bà đặt con dao lên bàn, nhìn Frank và Meggie; môi bà bỗng mím lại:
- Meggie, mẹ chỉ cho phép con mặc chiếc áo đẹp nhất vào ngày chủ nhật với một điều kiện: con không làm bẩn. Bây giờ con nhìn xem ra cái thứ gì. Đúng là một đứa trẻ dơ dáy.
- Mẹ Ơi, không phải lỗi của Meggie đâu - Frank bào chữa. Chính Jack và Hughie đã giành lấy búp bê của Meggie để xem tay chân cử động như thế nào. Con có hứa với Meggie là mẹ và con sẽ chữa lại con búp bệ Làm được phải không mẹ?
- Con đưa mẹ xem - Fiona vừa nói vừa đưa tay ra. Bà là một người lặng lẽ, ít nói, và có vẻ như sống không được tự nhiên. Những gì trong đầu bà khó ai đoán biết, ngay cả chồng bà. Bà nhường quyền giáo dục các con cho chồng và tuân thủ các mệnh lệnh của chồng mà không có một phản ứng hay than phiền nào, ngoại trừ một vài trường hợp hết sức đặc biệt. Meggie nghe các anh mình nói nhỏ với nhau rằng mẹ cũng sợ ba như chúng và nếu thật thế thì mẹ đã giấu giếm cái sợ ấy dưới một lớp ngoài bình thản. Trên nét mặt ấy cũng tỏ ra một chút bướng bỉnh. Bà không bao giờ cười, cũng như không bao giờ nổi giận.
Fiona đặt con búp bê lên cái kệ gần bếp và nhìn Meggie:
- Sáng mai mẹ sẽ giặt quần áo cho Agnès và sẽ chải tóc lại. Sau buổi ăn chiều nay, anh con sẽ dán tóc và không chừng phải tắm cho nó sạch sẽ.
Meggie tỏ ra bằng lòng, nụ cười trên môi. Đôi lúc Meggie rất thèm được nghe tiếng cười của mẹ nhưng điều đó lại không bao giờ có được. Meggie cảm giác rằng mình đang chia xẻ với mẹ một điều gì đó rất đặc biệt mà cha cô và các anh không thể hiểu; thế mà cô bé vẫn không thể nào khám phá những gì chứa đựng bên trong con người mà Meggie hết lòng yêu thương.
Ngoài Frank, không một đứa con trong gia đình này hiểu được rằng Fiona luôn ở trong tâm trạng mệt mỏi, sự mệt mỏi không dễ gì vơi bớt. Có quá nhiều việc phải làm nhưng lại không có dư tiền và không đủ thìgiờ giải quyết. Bà chỉ trông cậy vào đôi taỵ Ngay bây giờ cô bé cũng đã giúp mẹ một số công việc vặt mãnh nhưng với bốn tuổi đầu, Meggie chưa đủ sức làm nhẹ bớt gánh nặng của bà. Sáu đứa con trai, chỉ có một đứa con gái, lại là con út. Những ai quen biết gia đình này đều thương hại bà nhưng điều ấy đâu có làm thay đổi được gì. Cái giỏ đựng đồ cần vá lại đầy những chiếc vớ chưa được mạng, có cả que đang dính vào một chiếc vớ khác đang dở dang. Hughie đã cao nhòng không còn mặc được những cái áo xănđai cũ; với Jack thì lại không đủ lớn để mặc áo của anh.
Chương 3
Padraic Cleary - tức Pađy - có mặt ở nhà trong tuần lễ sinh nhật của Meggie là chuyện hoàn toàn tình cờ. Mùa cắt long cừu chưa đến, ông tạm làm việc gần nhà, làm đất và trồng trọt. Pađy chuyên nghề cắt lông cừu, làm thời vụ từ giữa mùa hè đến hết mùa đông, sau đó là thời gian cừu đẻ. Thông thường Pađy tìm đủ việc làm để chịu đựng qua mùa xuân và những tháng đầu mùa hè; ông phụ lo cho cừu đẻ, cày đất, vắt sữa bò, hai lần mỗi ngày ở trang trại kế bên. Ông sẵn sàng đi đến bất cứ đâu miễn có việc làm, để mặc gia đình sống trong căn nhà tuy lớn nhưng có vẻ cổ xưa, một mình vợ phải tự lo liệu các thứ. Ông không thể làm khác hơn vì không có đất đai riêng.
Mỗi ngày Pađy về nhà lúc mặt trời khuất bóng, đèn đã đốt lên, in rõ những cái bóng đen nhảy múa trên trần. Tập hợp ở mái hiên nhà sau, mấy đứa con trai chơi đùa với một con ếch, ngoại trừ Frank. Padraic dư biết con trai lớn của ông hiện giờ ở đâu. Ông nghe rõ tiếng bửa củi đều đặn. Ông dừng lại ở hiên nhà, đá vào mông Jack một cái và đưa tay xoa đầu Bob một cách thương yêu:
- Ra phụ Frank chẻ củi, đồ làm biếng. Ráng làm xong trước khi mẹ đặt bàn, bằng không tao sẽ cho một trận nên thân.
Padraic ra hiệu bằng đầu hướng về Fiona đang bận rộn bên cái chảo; ông không bao giờ ôm hôn vợ trước mặt con cái. Những biểu hiện tình cảm ấy theo ông nên giới hạn trong phòng ngủ của hai vợ chồng. Ông cởi đôi ủng dính đầy bùn; Meggie mang đến cho cha một đôi dép. Ông nở nụ cười đón lấy. Trong lòng luôn tràn ngập một tình cảm rất lạ như bị chinh phục mỗi khi nhìn thấy Meggie con gái mình. Nó xinh quá, tóc đẹp làm sao; ông cầm một loạn tóc lay nhẹ rồi thả xuống, thích thú nhìn con. Ông nhấc bổng Meggie lên rồi hai cha con cùng ngả xuống chiếc ghế bành êm ái đặt ở trong nhà bếp, đó là chiếc ghế bành thời Windsor, có lót gối dựa. Meggie nằm gọn trong lòng cha, hai tay bá vào cổ, gương mặt tươi tắn ngước lên hy vọng được đùa giỡn với trò chơi buổi tối - nhìn ánh sáng xuyên qua những sợi râu ngắn màu vàng của cha.
- Em có thấy khỏe không Feẻ - Pađy hỏi thăm vợ.
- Bình thường thôi anh ạ. Còn anh đã làm xong cái hàng rào dưới kia chưa?
- Xong rồi. Anh có thể bắt tay làm hàng rào phía trên vào sáng mai. Nhưng lạy chúa, anh mệt quá.
- Em cũng thấy anh mệt... Roberson còn giao cho anh con ngựa cá tính bất thường nữa phải không?
- Vẫn thế - Chẳng lẽ em nghĩ rằng hắn sẽ làm việc với con ngựa tồi ấy và dành cho anh một con ngựa tốt hơn sao? Tay anh rã rời cả. Hình như con ngựa cái này thuộc loại cứng đầu nhất ở Tân Tây Lan.
- Không quan trọng. Mấy con ngựa của ông già Roberson đều thuần cả. Sắp tới anh sẽ làm với lão phải không?
- Chưa làm ngay đâu.
ông nhồi thuốc loại rẻ tiền vào cái tẩu rồi lấy một que củi mồi lửa từ trong lò đang cháy đỏ. Sau đó ông lại ngả người lên ghế bành, rít mạnh một hơi.
- Con gái nói cho ba nghe con thấy thế nào khi được bốn tuổi - Pađy hỏi con.
- Con thấy thích lắm ba ơi.
- Mẹ có cho con quà không?
- Tại sao ba và mẹ biết được Agnès mà chọn cho con?
- Agnès? (ông liếc nhìn qua Fiona, vừa mỉm cười vừa nhíu mày dò vợ). Có phải tên của nó là Agnès?
đạ, Nó đẹp tuyệt ba ạ. Con muốn nhìn nó suốt ngày.
- Rất may là còn lại cái gì đó để nhìn - Fiona nói bằng giọng hơi cằn nhằn. Jack và Hughie đã đoạt con búp bê trước khi Meggie có thời giờ nhìn ngắm.
- Hừ! Lại chuyện khỉ của mấy thằng con trai, phải trị chúng. Con búp bê con có hỏnh nhiều hông?
- Không đến nỗi. Frank đã bắt gặp hai đứa kịp lúc.
- Frank? Làm sao nó lại có mặt ở đó? Nó phải ở dưới lò rèn suốt ngày kia mà. Humter chờ nó làm xong cái cánh cửa nhỏ.
- Đúng là nó ở lò rèn suốt ngày - Fiona trả lời ngaỵ Nó chỉ lên nhà thoáng một cái để lấy cái gì đó cần cho công việc. Pađy quả rất khắc nghiệt với Frank.
- Ba ơi! Anh Frank dễ thương lắm. Không có anh ấy, Agnès đã chết rồi... Sau bữa cơm, anh Frank sẽ dán lại tóc trên đầu con búp bê cho con.
- Vậy thì tốt. Pađy nói lầm nhầm bằng một giọng mỏi mệt.
Mấy đứa con của ông đều có tóc màu hung dày và lượn sóng, tuy vậy không có đứa nào màu tóc lại rực sáng dữ dội như ông. Pađy thấp người, chắc như thép, chân vòng kiềng do cả đời ngồi trên lưng ngựa, hai cánh tay dài ra sau những năm làm công việc cắt lông cừu; ngực và hai cánh tay che phủ bởi một lớp lông màu vàng. Đôi mắt màu xanh và thường nheo lại như người thủy thủ hướng tầm nhìn ra xạ Gương mặt ông không có gì là kiểu cách lại dễ gây cảm tình. Mũi tuyệt đẹp, đúng là mũi rômanh, khiến cho những người đồng hương ái Nhĩ Lan của ông phải ghen tức. Ông vẫn còn giữ được giọng nói dịu dàng của vùng Galway, nhưng sau hai mươi năm sống ở miền đất xa xôi này ông không còn nói năng nhanh nhẩu như xưa, giống như một cái đồng hồ treo tường cũ kỹ cần được lên dây lại. Một người hạnh phúc vì đã thành công trong cuộc sống lao động gay go vẫn xứng đáng hơn nhiều người khác và mặc dù cai quản cằn nhà này bằng một thứ kỷ luật sắt, ông vẫn được con cái yêu thương, ngoại trừ một đứa. Nếu không đủ bánh mì cho mọi người, ông nhịn ăn; nếu phải chọn lựa giữa quần áo mới cho bản thân hay cho một đứa con nào đó, ông bằng lòng mặc quần áo cũ. Theo cách của ông, đó là một bằng chứng biểu thị tình thương dành cho con, cụ thể hơn hàng biết bao nhiều cái hôn dễ dàng ban phát. Ông dễ nóng giận và đã từng giết người. Nhưng sự may mắn đã nghiêng về phía ông hôm đó; nạn nhân là một người Anh chủ nhân chiếc tàu đậu ở cảng Dun Lacghaize.
Fiona xuất hiện ở ngưỡng cửa sau và nói lớn:
- Vào bàn ăn.
Mấy cậu con trai lần lượt bước vào; người cuối cùng là Frank tay ôm bó củi đến đặt vào chiếc thùng bên cạnh lò sưởi. Pađy để Meggie đứng xuống rồi đến ngồi ở đầu bàn. Riêng Meggie ngồi trên một cái thùng gỗ đặt bên cạnh chạ Fiona chia thức ăn vào dĩa một cách nhanh và gọn như một người phục vụ chuyên nghiệp, rồi mang mỗi lượt hai dĩa cho gia đình, trước hết cho Pađy rồi đến Frank, người sau cùng là Meggiẹ Bà lo cho mình khi mọi người đã có phần.
- Lại cái món ragu chán chết! Stuart cằn nhằn; hai tay cầm dao và nĩa nhưng mặt mày nhăn nhó.
- Ăn đi! Pađy ra lệnh.
Fiona cũng ngồi vào bàn và nuốt nhanh phần ăn của mình. Rồi bà đứng lên đặt đầy bánh vào những cái dĩa mới. Đó là những bánh bích qui do bà làm, bên trên rưới đường, mứt và một loại kem. Cũng chính bà mang một lượt hai dĩa lên bàn. Khi xong đâu đấy rồi, Fiona mới ngồi thở và bắt đầu ăn phần tráng miệng không có gì vội vã.
- Ngon quá! Meggie la to lên. Bánh ngon quá!
Cô bé cắm sâu chiếc muỗng qua lớp kem.
- Bữa ăn này là mừng sinh nhật của con đó Meggie - Pađy vui vẻ nói - Do đó mẹ đã làm món tráng miệng mà con thích nhất.
Sau đó Fiona mang ra một chiếc ấm thật lớn rồi rót cho mỗi người một tách trà bốc hơi. Cả gia đình ngồi lại ở bàn nói chuyện, uống trà hoặc đọc sách khoảng một tiếng đồng hỗ nữa. Pađy ngậm ống vố, đầu nghiêng xuống đọc quyển sách vừa mượn của thư viện lưu động. Fiona cứ lo châm đầy trà vào mấy chiếc tách trong khi Bob cũng đọc. Những đứa con khác nhỏ hơn chuẩn bị cho thời khóa biểu ngày mai.
Nhà trường đã trả học sinh về trong dịp nghỉ hè; các cậu con trai được tự do tỏ ra rất hăng hái đảm nhận công việc được giao. Bob sơn phết lại bên ngoài căn nhà, chỉ những nơi cần thiết; Jack và Hughie đi kiếm gỗ về để làm củi, chăm sóc những phần phụ thuộc của nhà và vắt sửa; Stuart trồng rau. Thỉnh thoảng Pađy ngưng đọc sách ngẩng đầu lên để bổ sung thêm cho ai đó một công việc. Phần Fiona thì chẳng nói một lời, còn Frank ngồi im trên ghế uống hết tách trà này sang tách trà khác.
Cuối cùng Fiona đưa mắt ra hiệu gọi Meggie đến ngồi trên một cái ghế cao, bà chải tóc cho con gái, rồi bảo Meggie đi ngủ, cùng lúc với Stuart và Hughiẹ Jack và Bob xin đi ra ngoài cho chó ăn; Frank đặt con búp bê trên tấm ván kê làm bàn viết và bắt đầu dán lại tóc cho nó. Pađy vương vai, gấp sách lại rồi đặt cái ống vố trên chiếc ghế vỏ ốc lớn được dùng làm gạt tàn thuốc.
- Thôi, tôi đi ngủ nha mẹ chúng nó.
- Chúc anh ngủ ngon, Pađy.
Fiona dọn dẹp thật nhanh, chén dĩa mang ra sau bếp rồi bắt đầu ngồi rửa. Frank vùi đầu vào việc sửa con búp bệ Nhưng khi liếc nhìn chồng dĩa cao ngất, cậu ta bật dậy và không nói một lời đi lấy nùi giẻ phụ mẹ. Frank biết rằng nếu bị cha mình bắt gặp thì ông không tha đâu. Ông phân công rất dứt khoát: đàn ông con trai không được rớ vào công việc của đàn bà. Biết thế, nhưng Frank vẫn chờ cha mình vừa đi nghỉ là bắt tay vào phụ mẹ. Fiona trìu mến nhìn con trai lớn:
- Frank à, không có con mẹ không biết sẽ xoay sở ra sao. Nhưng đáng lý con không nên nhúng tay vào. Sáng mai con sẽ mệt...
- Mẹ đừng lọ Rửa vài cái dĩa chẳng hao tốn bao nhiêu sức. Giúp mẹ đỡ mệt một chút đâu phải là chuyện lớn.
- Công việc này là của mẹ, và chẳng có gì vất vả đâu Frank ạ.
- Con mong ngày nào đó nhà mình giàu có để có thể mướn thêm người phụ mẹ.
- Con đừng mơ chuyện hão huyền.
Với tay lấy miếng giẻ, bà lau hai bàn tay ửng đỏ đầy xà phòng. Khi nhìn Frank, trong đôi mắt của bà chứa đựng một nỗi âu lo mông lung. Bà đoán ra sự bất mãn của con và nỗi cay đắng vượt qua mức độ nổi loạn bình thường của một người lao động với số phận của mình.
- Frank, con không nên có những ước muốn điên rồ. Nó chỉ gây phiền lụy cho con. Chúng ta thuộc tầng lớp cùng cực có nghĩa là chẳng bao giờ giàu và cũng không có đầy tớ đâu con ạ. Con hãy bằng lòng với chính con và những gì con có. Khi con nói ra những chuyện như thế con đã làm nhục cha con đó. Ông không uống rượu, không chơi bời, ngượi lại làm việc rất cực nhọc vì chúng tạ Ông không giữ riệng một xu cho ông, tất cả cho chúng ta đấy thôi.
Đôi vai gân guốc của Frank nhúm lại, nét mặt sa sầm xuống:
- Mẹ ạ, nhưng tại sao muốn thoát khỏi số phần của mình lại bị trách cứ? Con không thấy điều gì xấu nếu con mong cho mẹ có được một người giúp việc để mẹ bớt cực.
- Điều đó chưa phải tốt đâu con, vì nó không xảy ra như thế!
Con biết gia đình mình không đủ tiền để lo cho con học tiếp và khi con không tiếp tục đến trường thì làm thế nào con có thể tránh được cái số phận của một người lao động cực nhọc... Giọng nói, cách ăn mặc, hai bàn tay chai của con đã cho thấy con phải lao động mới nuôi sống được mình. Không có gì là nhục khi có hai bàn tay chai. Cũng như cha con thường nói: khi có một người có hai bàn tay như thế thì ai cũng biết ngay đó là một người lương thiện.
Frank nhún vai không nói.
Anh đứng dậy đặt con búp bê bằng sứ trên đầu tủ buýp phê, phía sau hợp bánh bích quỵ Anh không sợ mấy thằng em trai có những hành độg phá hoại lần thứ hai; chúng ngán Frank nổi giận hơn la cha vì rằng bản chất của Frank có một chút hung dữ. Nhưng cái tính xấu ấy không bao giờ Frank lộ ra khi anh ở bên cạnh mẹ hay cô em gái Meggie.
Fiona nhìn Frank mà lòng đau nhói; dường như ở Frank có cái gì đó cô đơn và tuyệt vọng và biết bao nhiều điều băn khoăn vây hãm. Phải chi Pađy và Frank hòa thuận! Nhưng cả hai đều không nhìn mọi sự việc dưới con mắt giống nhau. Họ hục hặc nhau thường xuyên.
Ngoại trừ một lần được đi chơi ở Wahine cách đây tám tháng. Meggie chưa bao giờ đi xa hơn nhà kho và cái lò rèn ở dưới thung lũng. Cho nên sáng đầu tiên Meggie đi học ở trường, cô bị căng thẳng đến đỗi nôn ra ngoài những gì đã ăn sáng. Thế là Meggie được bế về phòng ngủ, tắm rửa sạch sẽ và thay một bộ đồ khác. Bộ quần áo mới màu xanh đậm với cổ màu trắng theo kiểu lính thủy, được thay bằng một cái áo choàng màu nâu xấu xí với hàng nút cài trên cổ rất cao, khiến Meggie có cảm giác như bị nghẹt thở.
Bob, Jack, Hughie và Stuart vừa chạy vừa nhảy cò cò đã ra tới ngoài cổng. Lúc đó Fiona mới lo xong cho Meggie, bà thúc hối con gái mang theo thức ăn sáng, bánh mì xăng-Uých phết mứt, bỏ vào chiếc cặp cũ.
- Mau lên Meggie, mọi người trễ hết đấy. Bob ra đến đường quay đầu lại la lớn.
Meggie chạy theo mấy anh đang khuất dần xa xa.
Từ nhà của họ Cleary đến thị trến Wahine khoảng chừng tám cây số.
Meggie nhìn cột cây số chỉ đường mà chân tay rụng rời. Tai
của Bob lắng nghe tiếng chuông trường đã đổ chưa, còn mắt thì liếc sang Meggie đầy băn khoăn; cô bé đi bước thấp bước cao, thỉnh thoảng lại thở ra mệt nhọc. Dưới mái tóc dày màu hung, gương mặt đỏ hồng của Meggie bỗng trở nên nhợt nhạt. Bob giao chiếc cặp của mình cho Jack rồi đến bên em gái:
- Meggie, em ngồi lên lưng anh, anh cõng em đi cho nhanh.
Bây giờ thì Meggie có thể khám phá Wahine trong tư thế thoải mái.
Wahine chẳng có gì nhiều để xem. Không rộn rịp bằng một thị trấn lớn, nhà cửa trải đều hai bên con đường chính tráng nhựa. Khách sạn là tòa nhà đáng chú ý nhất cũng chỉ có một tầng với một tấm lợp bằng vải chịu trên hai cây trụ nhô ra sát đường để che nắng. Cửa hàng bách hóa là nơi đáng chú ý kế đó. Thị trấn chưa có một nhà chứa xe, ô tô ở đây còn rất hiếm. Trường học và Nhà thờ Anh quốc giáo đang được xây kế bên nhau, đối diện với nhà thờ Thánh Tâm và trường của giáo xứ.
Khi anh em Cleary đi ngang cửa hàng bách hóa thì chuông trường của giáo xứ vừa đổ, sau đó là chuông trường của thị trấn. Họ bước nhanh hơn vào sân trường kịp lúc năm mươi học sinh khác bắt đầu xếp hàng trước một nữ tu thấp người, tay cầm một cây roi mây dài. Đó là xơ Agatha.
Không bị lôi cuốn bởi những tiếng cười đùa khúc khích của đám học sinh, Bob và các em mình đứng nghiêm trang rồi lần lượt đi theo hàng vào lớp trong tiếng hát Niềm tin của các Thánh Tổ phụ của chúng ta, xơ Catherine đệm dương cầm. Khi học sinh cuối cùng vào lớp, xơ Agatha mới rời khỏi vị trí của mình. Bà đi thẳng đến anh em Cleary.
Meggia chưa bao giờ được nhìn thấy một nữ tu, nên miệng há hốc ra.
- Này Robert Cleary, tại sao em đi trễ? Giọng nói của xơ Agatha khô khan như hét lên.
- Thưa dì, con xin lỗi - Bob trả lời vụng về, mắt dán chặt vào cây roi mây đung đưa sau lưng xơ Agatha.
- Tại sao các em đi trễ? Bà hỏi gặng lần nữa.
- Con xin lỗi xơ.
- Hôm nay là ngày tựu trường, Robert Cleary; tôi nghĩ rằng vào một dịp như thế, các em phải ráng đi học đúng giờ chứ?
Meggie run sợ, tập trung can đảm rồi lên tiếng:
- Thưa xơ, đó là lỗi của con - Tiếng nói nhỏ như thì thầm và tắt nghẽn trong cổ.
Cặp mắt màu xanh đầy đe dọa rời khỏi Bob, chuyển sang hướng Meggie tưởng như xuyên thủng vào tận tim cô bé, trong khi đó Meggie vẫn hồn nhiên giương đôi mắt nhìn vị nữ tu, hoàn toàn không ý thức rằng mình vừa phạm một sơ hở.
- Tại sao lại lỗi của cô - Vị nữ tu hỏi Meggie bằng một giọng lạnh lùng chưa bao giờ Meggie được nghe.
- Dạ thưa, con nôn ra đầy bàn, làm lấm cả quần áo. Mẹ con phải lau rửa và thay quần áo khác cho con, do đó chúng con bị trễ - Meggie giải thích một cách vụng về.
Nét mặt của xơ Agatha không hề thay đổi nhưng miệng mím chặt lại như một cái lò xo bị căng ra quá sức, còn đầu ngọn roi thì hạ thấp xuống vài centimét.
Chuyện gì thế? Bà hỏi Bob như nói với một loại sâu bọ vô cùng kinh tỏm như chưa từng có trong danh mục khoa hoc.
- Xin xơ tha lỗi chọ Đây là Meghann, em gái của con.
- Nghe đây nhé, phải cho cô em gái của cậu biết có những chuyện mà những người có lễ giáo không bao giờ nói đến. Trong mọi trường hợp, chúng ta không đề cập đến bất cứ một món quần áo lót nào. Không bao giờ và không bao giờ. Tất cả những đứa trẻ con nhà đàng hoàng đều phải hiểu điều ấy. Đưa tay ra, tất cả.
- Nhưng thưa xơ, lỗi của con mà! Meggie kêu lên.
- Im ngay! Agatha quay qua Meggie ra lệnh - Tôi không cần biết ai là thủ phạm. Tất cả đều đi trễ, vậy tất cả phải bị phạt. - Sáu roi.
Bà kết án bằng giọng đều đều, chứa đựng sự đắc ý.
Meggie hốt hoảng nhìn hai bàn tay không nhúc nhích của Bob, rồi nghe tiếng rít của cây roi dài quất xuống nhanh đến nỗi mắt Meggie không theo kịp. Tiếng voi vang lên khi đụng vào bàn tay, nơi da thịt mỏng và mềm. Những đường dàiđỏ ửng nổi lên ngay; lần đánh sau trúng gần ngón tay và lần chót trúng ngay các đầu ngón tay đau thốn tới óc. Xơ Agatha sử dụng cây roi một cách đặc biệt chính xác. Thêm ba roi nữa quất xuống dưới tay bên kia của Bob, rồi bà quay sang Jack. Mặt Bob tái nhợt nhưng không một tiếng rên. Và xơ Agatha đã dùng cách đánh ấy với các đứa em trai của Bob, kể cả Stuart hiền hậu và dịu dàng nhất. Tất cả không một tiếng rên. Đến Meggie, cô bé nhắm mắt lại khi ngọn roi giơ lên cao và không thấy nó sa xuống lúc nào. Nhưng sự đau đớn thật dữ dội, da thịt như bị xé ra và nhức thấu xương. Rồi ngọn roi thứ hai quất xuống; cơn đau lên đến vai thì ngọn roi thứ ba và thứ tư tiếp theo, trúng ngay những đầu ngón taỵ Meggie cắn môi đến khi rướm máu, và cảm thấy xấu hổ khi bật ra tiếng khóc. Tức giận phẫn nộ trước một sự bất công như thế, Meggie mở lớn đôi mắt nhìn xơ Agathạ Đó là bài học đầu tiên của cô bé, bài học không chứa đựng những điều mà đáng ra vị nữ tu phải đưa vào.
Mãi cho đến giờ ăn trưa, hai bàn tay Meggie mới có thể hoạt động lại bình thường. Meggie đã trải qua một buổi sáng đầy sợ hãi sửng sốt về những gì đã xảy ra, đã nghe thấy. Ngồi trước chiếc bàn có hai ghế, ở tận cùng phòng học, Meggie cũng không chú ý người bạn cùng bàn mình là ai. Cô bé trải qua giờ cơm trưa buồn bã.
Khi tiếng chuông báo hiệu tiết học trưa bắt đầu, Meggie tìm một chỗ đứng vào hàng, lúc ấy cô bé mới nhận ra những gì chung quanh. Nỗi xấu hổ bị phạt chưa vơi nhưng cô bé vẫn ngẩng cao đầu và làm như không nghe những tiếng xì xào trong đám bạn nhỏ cùng lớp, cũng như không để ý đến những chiếc cùi chỏ thúc vào nhau.
Xơ Agatha đứng oai vệ trước học sinh với cây roi dài trong tay; xơ Declan đi đi lại lại ở cuối hàng. Xơ Catherine ngồi trước đàn dương cầm bắt đầu đánh bản: Hãy tiến lên, các con chiên của Chúa. Các cô cậu dễ thương này đi đều bước như những người lính nhỏ - xơ Catherine thầm nghĩ như thế với tất cả niềm kiêu hãnh.
Trong ba nữ tu, xơ Declan là mẫu chép nguyên bản của xơ Agatha với mười lăm tuổi nhỏ hơn, chỉ có xơ Catherine thì còn có chút gì nhân từ.
Ở hàng ghế cuối lớp, Meggie liều lĩnh liếc mắt nhìn sang cô
bạn gái nhỏ ngồi chung bàn với mình. Một nụ cười sún răng đáp lại. Đôi mắt đen tròn làm gương mặt u buồn trở nên rực sáng. Cô bé thu hút Meggie có màu tóc đỏ hoe, gương mặt đầy những vết tàn nhang.
- Bạn tên gì? Cô bé có vẻ đẹp buồn hỏi Meggie, miệng cắn đầu cây bút chì.
- Meggie Cleary - tiếng trả lời của Meggie thật nhỏ.
- Hai em đằng kia! một giọng khô khan vang lên từ đầu lớp.
Meggie giật thót người, nhìn dáo dác xung quanh hoảng sợ, tim cô bé như va chạm vào lồng ngực. Meggie nhận ra là cả lớp đang nhìn mình. Xơ Agatha bước xuống đi thẳng đến Meggiẹ Sự sợ hãi khiến Meggie mong chờ một phép lạ nào giúp mình biến mất, hoặc phải co chân chạy ngay khỏi nơi này. Phía sau là bức tường, hai bên là những bàn học, còn trước mặt là xơ Agatha.
- Meghann Cleary, em đã nói chuyện.
- Thưa xơ, vâng.
- Em nói gì đấy?
- Tên con, thưa xơ.
- Tên em? Xơ Agatha lặp lại bằng giọng chế diễu vừa đảo mắt nhìn khắp lớp, như muốn giải thích những lời lên án của mình.
- Này các em, hết chuyện rồi! Thêm một thành viên của gia đình Cleary mang lại vinh dự cho trường của chúng ta bằng sự hiện diện của họ Do đó cô ta phải loan báo một cách ầm ĩ tên mình (rồi xơ quay lại phía Meggie). Đứng lên! Em phải đứng lên khi tôi đang nói với em, đồ con nhỏ rừng rú! Đưa hai tay ra.
Meggie bước nhanh ra khỏi hàng ghế, những lọn tóc dài tung lên rồi rơi xuống che khuất một phần gương mặt. Cô bé vặn chéo hai tay một cách tuyệt vọng nhưng xơ Agatha vẫn không nhúc nhích, bà ta cứ chờ, cứ chờ, cứ chờ... Sau cùng Meggie tìm được chút gan dạ chìa lòng bàn tay ra. Nhưng ngay lúc cây mây đập xuống, cô bé rút bàn tay lại thật nhanh vừa thở hổn hển, mặt xanh như cắt. Xơ Agatha chụp lấy và kéo chùm tóc hung về phía bà, gương mặt của Meggie áp sát vào cặp kính của bà.
- Đưa tay ra, Meghann Cleary - xơ Agatha ra lệnh, giọng lịch sự nhưng lạnh lùng và quyết liệt.
Meggie há miệng ra và nôn cả buổi ăn trưa lên chiếc áo dài của xơ Agathạ Tiếp đó là tiếng hét kinh hãi của học sinh trong lớp; trong khi đó xơ Agatha trố mắt nhìn những thứ gớm ghiếc vừa nôn ra chảy dài từ trên xuống theo những đường xếp của chiếc áo. Mặt bà đỏ gay vì tức giận điên người cùng với chút kinh hãi. Cây mây quất xuống không cần biết nhắm vào đâu, Meggie đưa hai tay lên che mặt rồi chạy trốn vào một góc lớp, miệng vẫn tiếp tục nôn mửa. Xơ Agatha đã mỏi mệt không thèm đánh nữa, bà chỉ ra cửa:
- Ra khỏi đây! Về nhà của mày đi, đồ thất học đáng ghê tởm.
Rồi bà quay phắt lại bước sang lớp học của xơ Declan.
Đôi mắt luống cuống của Meggie tìm thấy Stuart, người anh học chung lớp ra hiệu cô phải vâng lời. Cái nhìn hiền hòa của Stuart đầy thương hại và thông cảm với Meggiẹ Cô bé lấy khăn tay chùi miệng và khập khiễng bước ra khỏi lớp. Còn những hai tiếng đồng hồ nữa mới hết giờ học; Meggie rời sân trường như một cái máy đi xuống đường và biết rằng các anh mình sẽ không theo kịp. Vì quá sợ hãi, Meggie không biết phải đứng lại nơi nào để chờ các anh; Meggie muốn về trước một mình và chỉ một mình thôi để kể với mẹ tất cả những gì xảy ra
Chương 4
Fiona suýt nữa ngã vào con gái khi bước qua ngưỡng cửa sau nhà, tay xách một giỏ quần áo sắp sửa đem phơi. Meggie đang ngồi trên bậc cao nhất ở ngoài hàng hiên, đầu gục xuống, tóc rũ rượi, dơ bẩn. Fiona đặt chiếc giỏ nặng xuống, thở ra, đưa tay vẹt qua một bên phần tóc che khuất mặt Meggie.
- Nói cho mẹ nghe chuyện gì đã xảy rả Bà hỏi bằng giọng mệt mỏi.
- Con nôn ra đầy áo của xơ Agatha.
- Chúa ơi! Fiona kêu lên, hai tay chống vào hông.
- Bà cũng đã quất cho con nhiều roi - Meggie nói không ra tiếng, nước mắt ràn rụa.
- Thật sạch sẽ quá - Fiona đứng lên khó nhọc xách chiếc giỏ quần áo đầy nắp - Meggie, mẹ không biết phải làm gì đây, rồi ba về sẽ cho một trận.
Nói xong bà băng qua sân đi về phía hàng dây phơi quần áo.
Meggie lấy tay quệt nước mắt; nhìn theo mẹ một lúc rồi đứng lên và đi xuống con đường dẫn đến lò rèn.
Frank vừa đóng móng xong cho con ngựa cái của ông Roberson thì Meggie xuất hiện. Anh ta quay lại và thấy Meggiẹ Những kỷ niệm không lấy gì tốt đẹp mà cậu ta từng trải qua ở nhà trường lại ập đến. Meggie quá nhỏ bé, mũm mĩm thơ ngây biết bao, và những gì Frank nhìn thấy trước mắt khiến anh không thể không nghĩ đến việc giết ngay xơ Agathạ Giết bà ta, giết bà ta thật sự. Anh ta buông mấy thứ đang cầm trong tay, tháo cái tạp dề bằng da ra và đến nhanh bên Meggie.
- Chuyện gì đã xảy ra em gái cưng của anh? Frank vừa hỏi vừa quì xuống trước mặt em gái.
Mùi nôn mửa xông ra từ em gái làm cho Frank cũng khó chịu nhưng cậu ta cố chịu đựng.
- Anh Frank - Frank - Frank! Cô bé nói như rên siết, gương mặt nhăn nhó đau đớn, và bây giờ nước mắt mới tuôn trào. Meggie nhào tới ôm ghì lấy Frank, và khóc không ra tiếng, nhưng lại rất đau khổ.
Khi Meggie dịu bớt cơn xúc động, Frank bế em gái đặt trên đống cỏ khô mùi dễ chịu, bên cạnh con ngựa cái của ông Roberson. Cả hai ngồi yên lặng nhìn con vật nhấm ở rơm. Đầu của Meggie ngả vào phần ngực trần êm ái của Frank.
- Tại sao bà ta phạt tất cả anh em mình hở anh Frank? - Meggie hỏi. Em đã nói là lỗi riêng của em mà.
Bây giờ thì Frank đã quen cái mùi toát ra từ chiếc áo của em và anh ta không còn chú ý nữa. Bất chợt, Frank đưa tay ra, lơ đãng vuốt mũi của con ngựa cái, đẩy nó ra khi nó có vẻ quá thân mật.
- Chúng ta nghèo, Meggie, đó là lý do chính. Các dì phước luôn luôn ghét học sinh nghèo. Nếu em còn đi học ở cái trường hắc ám đó của xơ Agatha vài ngày nữa, em sẽ thấy bà ta không chỉ nhắm vào anh em Cleary, mà cả anh em Marshall Mac Donald. Tất cả đều nghèo. Ngược lại, nếu chúng ta giàu, đi học bằng xe ngựa có mui sập sang trọng như dòng họ Ó Brien, các bà xơ sẽ nhảy tới ôm cổ chúng tạ Nhưng chúng ta không có điều kiện để tặng một cây đàn ócgơ cho nhà thờ, cũng không có những áo choàng lễ nạm vàng, hay một con ngựa, một chiếc xe cũ tặng cho các bà nữ tu dùng việc riêng, nên chúng ta chẳng là gì. Các bà muốn đối xử với chúng ta như thế nào tùy ý.
Cô bé ngái ngủ, hai mí mắt trì nặng xuống. Frank đặt em nằm trên đống cỏ khô và trở lại công việc của mình, trên môi điểm một nụ cười và cất tiếng hát nho nhỏ.
Meggie đang ngủ thì Pađy bước vào, tay lấm đầy phân vì ông ta vừa chùi rửa chuồng ngựa của ông Jarman.
- Mẹ con mới cho ba hay la Meggie bị phạt ở trường và bị đuổi về nhà. Con có biết lý do hay không?
Frank để cái trục xe qua một bên.
- Tội nghiệp nó đã nôn vào áo của xơ Agatha.
Pađy đổi sắc mặt, mắt nhìn thẳng về phía bức tường xa nhất như đang tìm một thái độ Rồi ông lại hướng mắt về phía Meggie.
- Con bé bị xúc động quá mức ngay buổi học đầu tiên chứ gì?
- Con không rõ. Nó đã nôn ở nhà trước khi đi và do đó làm cho cả bốn đứa phải trễ giờ. Chúng đến trường sau khi kiểng đổ. Mỗi đứa đều bị ăn sáu roi, riêng Meggie bấn loạn vì cho rằng nó là người có lỗi duy nhất đáng bị phạt. Sau buổi ăn trưa, Meggie lại bị xơ Agatha đánh một lần nữa, thế là Meggie của chúng ta đã trút toàn bộ bánh mì và mứt lên trên chiếc áo dài màu đen của xơ Agatha.
- Rồi chuyện gì xảy ra tiếp đó?
- Xơ Agatha đã tặng thêm một trận đòn cho Meggie và đuổi nó về nhà.
- Như vậy, Meggie đã bị phạt là đúng. Ba rất kính trọng các dì phước và ba cũng ý thức rằng chúng ta không có quyền chỉ trích hành động của các dì. Nhưng ba mong rằng các dì sẽ sử dụng roi thước bớt đi. Ba biết các dì phải khổ tâm lắm mới nhét được vào những cái đầu khó bảo của người ái Nhĩ Lan chúng ta một chút văn hóa. Dù sao đó là ngày đi học đầu tiên của Meggie.
Frank nhìn cha sửng sốt. Lâu nay chưa bao giờ Pađy nói chuyện với con trai lớn trong tứ thế giữa hai người đàn ông. Lần đầu tiên được lôi ra khỏi những oán giận thường xuyên đầy ắp, Frank hiểu ra rằng dù với bề ngoài cứng rắn, cha mình vẫn tỏ ra âu yếm Meggie hơn cả bọn con trai. Frank cảm thấy gần với cha hơn. Anh mỉm cười không có chút ẩn ý.
- Meggie là một đứa trẻ tuyệt vời phải không bả Pađy tán đồng một cách lơ đãng câu hỏi của Frank vì ông đang nhìn Meggiẹ Con ngựa cái nhe răng, hỉnh mũi thở phì phì; Meggie trở mình, lăn qua một bên rồi mởt mắt. Khi nhìn thấy cha đứng kế bên Frank, cô bé bật ngồi dậy, mặt tái nhợt vì sợ sệt.
- Sao cô gái bé nhỏ, con đã trải qua một ngày rất mệt nhọc phải không?
Pađy bước tới, bế Meggie lên và không khỏi giựt mình vì mùi tanh xông lên mũi. Nhưng ông nhún vai và ôm con gái vào lòng.
- Con bị đánh đòn bằng gậy... Meggie nói với cha.
- Này nhé, xơ Agatha cho ba biết đây chưa phải là lần cuối cùng đâu (ông đặt Meggie lên vai) - Bây giờ tốt hơn hết con xem mẹ có sẵn nước nóng để tắm không. Con gái ba mà hôi hám hơn cả chuồng ngựa của Jarman.
Những lần nôn mửa của Meggie đã mang lại một kết quả khá tốt. Xơ Agatha vẫn dùng roi đánh cô bé nhưng bây giờ bà luôn luôn giữ một khoảng cách đủ để tránh những hậu quả bất ngờ. Do đó mà sực mạnh của làn roi và sự chính xác đã không còn như trước.
Khi Meggie chưa đến trường thì Stuart là mục tiêu chính của ngọn roi trong tay xơ Agathạ Nhưng thật ra, Meggie lại là đối tượng hành hạ thích thú hơn, vì tánh hay mơ mộng và kín đáo của Stuart ít có chỗ sơ hở cho xơ Agatha khai thác.
Meggie quen tay trái. Đó là cái tội đáng trị nhất. Ngày tập viết đầu, khi cô bé cầm cục phấn lên, xơ Agatha đã lao vào cô bé như César lao vào lính Gaulois:
- Meghann Cleary, bỏ cục phấn xuống ngay! bà ta hét lên.
Thế là một trận chiến dằng lại diễn ra. Meggie quen tay trái, bất trị, không khoan nhượng. Khi xơ Agatha bẻ cụp bàn tay mặt của Meggie trên tám bảng, Meggie thấy đầu óc đảo lộn, khổng biết cách nào điều khiển bàn tay bất lực của mình làm theo đòi hỏi của xơ Agathạ Bà ta có làm gì đi nữa, bàn tay mặt của Meggie vẫn không thể kẻ được chữ Ạ Thừa lúc xơ Agatha vừa quay sang chỗ khác, Meggie nhanh hơn dùng tay trái viết một chữ A thật đẹp.
Nhưng cuối cùng xơ Agatha đã thắng. Một buổi sáng trong lúc các học sinh đang xếp hàng, xơ Agatha đến lắm lấy tay của Meggie kéo ra sau lưng rồi dùng một sợi dây thừng cột chặt lại. Xơ Agatha chỉ tháo dây khi chuông báo tan học vào lúc ba giờ chiều. Ngay giờ nghỉ buổi trưa, Meggie cũng phải ăn, đi dạo và chơi với một bên tay trái hoàn toàn bất động. Ba tháng sau, Meggie tập được viết bằng tay mặt khá ngay ngắn, theo những qui định do xơ Agatha đề ra. Để đảm bảo chắc chắn cô bé không sử dụng trở lại tay trái, bà ta tiếp tục cột như thế thêm hai tháng. Sau đó xơ Agatha tập hợp tất cả học sinh để đọc một tràng kinh, cảm ơn Đức Chúa Trời với lòng nhân từ của Ngài, đã chứng minh sai lầm của Meggie - Những đứa con của Đức Chúa Trời nhân từ đều sử dụng tay mặt; những người sử dụng tay trái là do quỷ sứ sinh ra, nhất là khi chúng có tóc màu hung. Năm học sắp hết, tháng 12 đến và ngày sinh nhật của Meggie cũng gần rồi. Như một thông lệ của gia đình khi sinh nhật của các con rơi vào một ngày đi học thì buổi lễ được dời qua ngày thứ bảy.
Qùa sinh nhật của Meggie năm nay là một bộ tách dĩa với những hình vẽ đề tài Trung Quốc mà cô bé mong muốn từ lâu. Bộ tách dĩa ấy được đặt trên một chiếc bàn nhỏ xinh sắn màu xanh dương chung quanh có những chiếc ghế nhỏ. Tất cả do Frank làm cho em trong những lúc rỗi rảnh. Thế là Agnès mặc chiếc váy màu xanh mới, do chính mẹ. Meggie cắt và may, được đặt trên một trong những chiếc ghế ấy.
Hai ngày trước Noel năm 1917, Pađy trở về nhà đặt lên bàn tờ tuần báo và một chồng sách mượn của thư viện lưu động. Lần thứ nhất, việc đọc báo được chọn trước việc đọc sách. Tổng biên tập vừa áp dụng một công thức mới cho tờ tuần báo phỏng theo các tạp chí Mỹ. Ở phần giữa tờ báo được dành trọn để phản ánh tình hình chiến cuộc đang diễn ra.
Frank chụp lấy tờ báo và đọc ngấu nghiến các bài tường thuật.
- Thưa ba, con muốn ghi tên vào quân đội - Frank vừa nói vừa đặt tờ báo xuống bàn một cách lễ phép.
Fiona quay phắt đầu lại, làm đổ món ragu xuống bếp; Pađy giật nẩy mình trong ghế bành Windsor, ngưng đọc sách.
- Con còn quá trẻ, Frank, ông đáp lại.
- Thưa ba, con đã 17 tuổi. Con là một người lớn! Tại sao bọn Đức và bọn Thổ có quyền tàn sát quân lính của chúng ta như những con heo, trong khi đó con lại ở nhà ngồi bình yên? Đã đến lúc một thanh niên của dòng họ Cleary phải phụ vụ Tổ quốc.
- Nhưng con chưa tới tuổi, Frank - người ta không nhận con đâu.
- Nhận. Nếu ba không ngăn trở - Frank nói ngược lại một cách quyết liệt, mắt vẫn nhìn cha.
- Nhưng ba không đồng ý. Con là lao động duy nhất trong gia đình hiện naỵ Gia đình cần tiền do con làm ra. Con biết điều đó.
- Nhưng trong quân đội con cũng được trả lương.
- Lương lính hả? Pađy vừa hỏi vừa cười. Một thợ rèn ở Wahine có thu nhập nhiều hơn một người đi lính ở châu âu.
- Nhưng khi con ở đó, con có hy vọng đổi thay số phận thợ rèn của con! Đây là lối thoát duy nhất của con.
- Tất cả điều đó đều là chuyện tầm phào! Trời ơi, con không hiểu chút nào về những điều con đang nói. Ba sinh ra từ một đất nước trải qua một ngàn năm chiến tranh, do đó ba biết ba đang nói gì. Con có bao giờ nghe, các cựu chiến binh kể lại cuộc chiến của những người nông dân góc Hà Lan ở Nam Phi chống lại quân Anh? Con thường ra thị trấn Wahine; vậy lần tới con hãy tìm hiểu. Ba nghĩ điều đó sẽ rất bổ ích cho con. Ngoài ra ba có cảm tưởng bọn Anh không thích dùng người Tây Tây Lan; bọng chúng luôn bố trí lính Tây Tây Lan ở những nơi dễ chết nhất để tránh nguy hiểm cho mạng sống quí giá của họ. Cứ xem cái cách mà viên tướng Chwichell đã đưa quân lính của chúng ta đến một khu vực hoàn toàn không cần thiết như ở Gallipili thì cũngbiết. Mười ngàn người bị thiệt mạng trong số năm mươi ngàn. Tại sao lại phải đi chiến đấu cho cuộc chiến của Anh? Nước Anh đã giúp ích gì cho con, cái xứ gọi là Mẹ Tổ Quốc ấy, ngoại trừ việc hút các thuộc địa đến giọt máu cuối cùng. Nếu con đến nước Anh, con sẽ gặp ngay sự khinh bỉ vì con đến từ một xứ thuộc địa. Tây Tây Lan không hề bị đe dọa, kể cả úc.
- Nhưng con vẫn muốn vào quân đội.
- Con có thể muốn bất cứ điều gì nhưng con sẽ không rời khỏi nơi đây. Hay nhất là con quên đi tất cả những chuyện ấy. Hơn nữa con còn quá nhỏ để trở thành người lính.
Gương mặt của Frank đỏ gay, hai môi mím chặt lại, cậu ta cảm thấy đau khổ về chiều cao dưới trung bình của mình. Mới đây, một nỗi nghi ngờ đáng sợ lại xâm chiếm Frank. Mười bảy tuổi rồi mà Frank vẫn cao đúng một thước năm mươi chín, đó là chiều cao khi Frank được 14 tuổi; phải chăng mình không còn cao lên nữa.
Thế nhưng, công việc ở lò rèn đã mang lại cho anh một thể lực hơn hẳn vóc dáng của anh. Tuy nhỏ con nhưng Frank có một sức mạnh vô địch. Ở tuổi 17; anh chưa bao giờ bị đánh bại trong bất cứ một cuộc thi đấu quyền Anh nào. Frank được nhiều người khắp bán đảo Taranaki biết đến.
Pađy nhìn chăm chú Frank, cố tìm hiểu đứa con trai lớn của mình nhưng ông cảm thấy bất lực, Frank là đứa con “xa con tim” của ông nhất dù cho ông đã cố gắng không thiên vị bất cứ đứa con nào.
Cuộc tranh luận trên bàn ăn bỗng tắt ngang khi Pađy nhận xét về chiều cao của Frank; cả gia đình cúi đầu và im lặng khác thường, họ ăn món ragu thỏ. Meggie không ăn, mắt cứ nhìn Frank như lo sợ lúc nào đó anh mình có thể biến đi mất. Còn Frank, sau khi ăn sạch, ngồi nán lại một lúc cho đủ lễ, rồi đứng lên đi ra ngoài. Một phút sau tiếng rìu bửa củi vang vào tận trong nhà. Frank tấn công những khúc gỗ cứng nhất mà Pađy đã dự trữ để chuẩn bị đốt vào mùa đông, củi loại này cháy chậm.
Trong khi mọi người nghĩ rằng Meggie đã ngủ, cô bé lẻn ra khỏi phòng bằng ngã cửa sổ và đi đến vựa củi, nơi đây được coi là đáng kể nhất trong đời sống của cả nhà. Vựa củi chiếm khoảng đất rộng một trăm mét vuông, Frank đang đứng giữa bãi, chiếc rìu sáng loáng giơ cao hạ xuống nghe rít trong gió, những mảnh gỗ nhỏ văng tứ tung, lưng trần của Frank như thoa mỡ, mồ hôi chảy xuống từng giọt.
Meggie rón rén đến im bên chiếc áo sơ mi và áo lót của Frank vứt ở một góc, nhìn anh mình với chiếc rìu, Meggie không khỏi ngạc nhiên. Có đến ba cái rìu như thế sẵn sàng để thay vì vỏ cây bạch đàn có thể làm lụt đi nhanh chóng những cái bén nhất.
Frank tiếp tục làm việc gần như theo bản năng dưới ánh sáng hoàng hôn đang tắt lịm. Meggie né tránh nhanh nhẹn những mảnh gỗ nhỏ và chờ cho Frank khám phá sự hiện diện của mình.
Khi Frank quay lại để lấy một cái rìu khác thi anh ta bắt gặp cô em gái, ngồi đó im lặng trong chiếc áo sơ mi của Frank cài nút thật kỹ từ trên xuống dưới. Frank bước đến gần Meggie ngồi xổm xuống, chiếc rìu vẫn để giữa hai đầu gối.
- Em ra đây bằng cách nào hỡi cô bé lém lỉnh?
- Ngã cửa sổ. Em chờ cho Stuart ngủ mê.
- Coi chừng đấy, em sẽ trở thành một thằng con trai hư hỏng mất.
- Mặc kệ. Em vẫn thích chơi với bọn con trai hơn là buồn hiu một mình.
- Dĩ nhiên là thế.
- Có chuyện gì không Meggie?
- Frank, anh không đi thật chớ?
Meggie đặt hai bàn tay lên đùi anh mình và ngước nhìn bằng mắt âu lo, miệng mở lớn, còn nước mắt dã chảy xuống đầy lỗi mũi làm cho cô bé cảm thấy khó thở.
- Vâng có lẽ anh sẽ đi Meggie ạ - Frank trả lời dịu dàng.
- Anh Frank ơi, không nên! Mẹ và em rất cần anh! Nhà này không thể thiếu vắng anh được.
Frank mỉm cười dù biết khi nghe Meggie hồn nhiên lặp lại những lời nói giống hệt mẹ.
- Meggie, có những việc xảy ra không như mong muốn của chúng tạ Em phải biết điều đó. Trong nhà này các thành viên của gia đình Cleary đã được dạy phải làm việc chung nhau vì lợi ích của mọi người mà không bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Anh muốn ra đi vì anh đã 17 tuổi, đã đến lúc phải tự lập. Nhưng cha không đồng ý. Người ta cần anh ở nhà vì lợi ích chung. Vì anh chưa đủ 21 tuổi nên anh phải nghe lời cha.
Meggie gật đầu thật nhanh, cố gắng hiểu cho được những điều mà Frank giải thích.
- Thế đấy Meggiẹ Anh đã suy nghĩ rất kỹ và anh sẽ ra đi, anh không thay đổi quyết định. Anh biết mẹ và em không muốn thiếu anh, nhưng Bob lớn rất nhanh rồi ba và các em sẽ không nhận ra sự vắng mặt của anh đâu. Chỉ có đồng tiền của anh kiếm được là đáng kể đối với ba thôi.
- Thế là anh không thương ba mẹ và tụi em nữa sao hở anh Frank?
Frank quay lại ôm Meggie trong vòng tay, siết mạnh vào lòng, vuốt ve cô em gái với nỗi sung sướng. Hình như có gì quyện chặt vào như là sự tra tấn, pha lẫn đau buồn, cùng xót xa và cả đói.
- Không đâu Meggie! Anh thương em vô cùng, thương mẹ và em hơn tất cả mọi người cộng lại. Chúa ơi, phải chi em lớn hơn thì anh có thể giải thích cho em nghe. Nhưng có lẽ cũng may khi em còn bé bỏng như thế này... Đúng thế, như thế này vẫn tốt hơn...
- Em van anh, anh đừng đi Frank ạ.
- Meggie của anh, em không hiểu những gìanh đã nói à? Nhưng thôi, điều đó không quan trọng. Cái chính là em đừng nói cho ai biết em đã gặp anh. Em có nghe không? Anh không muốn người khác biết em đã ro chuyện này.
Meggie đứng lên, ráng nở nụ cười:
- Anh thấy cần phải đi thì cứ đi, anh Frank.
- Meggie, em nên trở về phòng và lên giường trước khi mẹ biết được em không có ở đó. Đi đi, chạy nhanh lên... !
Sáng hôm sau, Frank đã đi khỏi nhà. Khi Fiona vào đánh thức Meggie, nét mặt của bà căng thẳng, nghiêm nghị hơn lúc nào hết. Meggie nhảy ra khỏi giường như con mèo bị phỏng nước sôi và tự mặc quần áo vào không cần nhờ mẹ cài những chiếc nút nhỏ.
Ở bếp, mấy cậu con trai đã ngồi chung quanh bàn, buồn bã. Ghế của Pađy trống. Ghế của Frank cũng trống. Meggie im lặng rón rén ngồi vào chỗ của mình, răng cắn chặt vào nhau lo sợ. Sau buổi ăn sáng, Fiona ra lệnh cho các con dọn dẹp nhà. Ra phía sau nhà kho, Bob báo tin với Meggie.
- Frank đã đi rồi - Bob nói thật nhỏ.
- Có lẽ anh ấy chỉ đi Wahine - Meggie đặt giả thiết.
- Không đâu. Đồ ngu như bò. Anh ấy bỏ nhà ra đi để đăng vào lính. Anh cũng muốn lớn nhanh lên để có thể làm như Frank! Anh ấy may mắn lắm.
- Còn em thì thíc hanh ấy ở lại nhà hơn.
- Đúng quá, em chỉ là một đứa con gái.
Khi Meggie trở vào nhà, cô bé hỏi mẹ.
- Ba đâu rồi?
- Ba đi Wahine.
- Có phải ba đi để đem Frank về?
- Thật không có cách nào giấu chuyện bí mật trong gia đình này - Fiona cằn nhằn. - Không, ba không đi tìm Frank ở Wahinẹ Ba biết Frank đi đâu. Ba đi đánh điện tín cho cảnh sát và cho quân đội ở Wanganui. Lính quân cảnh sẽ mang anh con về đây.
- Mẹ Ơi, con hy vọng rằng họ sẽ tìm ra Frank. Con không muốn Frank đi luôn.
- Không một ai trong chúng ta muốn Frank ra đi. Chính vì thế mà ba sẽ lo liệu những điều cần thiết... để người ta đưa Frank trở về đây. Tội nghiệp thằng Frank con tôi! Tội nghiệp Frank! Bà không nói với Meggie mà than vãn một mình. Tôi không hiểu tại sao trẻ con phải gánh chịu mọi tội lỗi của người lớn. Thằng Frank tội nghiệp của tôi, nó khác tất cả...
Ba hôm sau, cảnh sát mang Frank trở về! Cậu ta chống lại dữ dội như một con sư tử - theo lời của viên trung sĩ ở Wanganui kể lại cho Pađy.
- Hắn ta đúng là một tên võ sĩ. Khi anh chàng biết được rằng Văn phòng tuyển binh đã được thông báo về trường hợp của hắn, hắn vọt chạy nhanh như một ngọn lao. Nếu hắn không xui rủi đụng đầu một toán lính tuần thì có lẽ đã thoát thân. Hắn chống lại dữ dội như một kẻ bị ma ám. Phải cần tới năm người mới còng hắn được. Anh ta quậy như làm xiếc.
Vừa kể lể một cách hấp dẫn, viên cảnh sát vừa tháo những dây xích nặng nề trả lại tự do cho Frank rồi đẩy Frank qua ngưỡng cửa. Frank bị loạng choạng và khi lấy lại thăng bằng anh đã đứng ngay trước mặt Pađỵ Cậu ta co rúm người lại như thể sợ bị phỏng nếu chạm phải thân thể của cha.
Các em của Frank đứng chung quanh nhà nhìn lại. Meggie âu lo không biết người ta có làm gì hại Frank không.
Frank quay sang nhìn mẹ trước hết, hai mắt màu đen và màu nâu pha trộn nhau trong một sự kết hợp chưa bao giờ được nói ra và cũng không bao giờ nên nói ra. ánh mắt khắt khe màu xanh của Pađy nhìn thẳng Frank vừa khinh miệt, vừa chua cay, như ngầm nói không thể chờ đợi gì khác hơn ở một đức con như thế. Mắt Frank nhìn xuống đất, chấp nhận cái quyền nổi giận của cha mình. Từ hôm đó, Pađy không nói chuyện với con trai ngoại trừ những câu cần nói.
Gặp lại các em mình, đó là điều hết sức khổ tâm với Frank vừa hổ thẹn, vừa khó chịu, như con chim lộng lẫy bay lên cao từ phương trời xa thẳm nào đó, rồi bỗng bị bắt phải quay về bị gẫy cánh, tiếng hót trở nên lặng lẽ.
Buổi tối như thường lệ, Meggie chờ mẹ kiểm soát xong các con đi ngủ, cô bé mới chuồn ra cửa sổ và băng qua sân sau; Meggie biết rõ Frank ở đâu giờ này. Ở một góc nhà khi, tránh mọi cái nhìn soi nhói, nhất là của cha.
- Frank, Frank, anh ở đâu? Cô bé hạ thấp giọng hỏi. Meggie bước vào nhà kho tối mịt, chân dò dẫm mặt đất với nỗi lo sợ chạm phải một con vật nào đó.
- Lại đây, Meggie.
Cô bé rất khó khăn mới nhận ra được giọng nói của Frank. Giọng nói ấy trước đây rất quen thuộc với Meggie bây giờ lại nghe đều đều, không còn sự nồng ấm trong đó.
Theo hướng gọi, Meggie đi lần đến chỗ Frank nằm rồi ngã vào lòng anh, hai tay ôm Frank, tay dài được bao nhiêu cô bé ôm hết bấy nhiêu.
- Frank ơi, em sung sướng quá vì anh đã trở về đây.
Frank tìm cách nằm sát hơn nữa dưới đống cỏ khô để có thể nhìn ngang mặt Meggiẹ Tay cô bé luồn vào tóc của Frank miệng kêu lên gừ gừ như con mèo con. Bóng đen dày đặc không cho Frank nhìn rõ mặt em, thế nhưng tình cảm của Meggie bỗng chốc phá tung những gút mắc trong lòng anh. Frank bắt đầu khóc, run rẩy toàn thân một cách đau đớn, nước mắt làm ướt áo cô bé. Meggie thì không khóc. Cái gì đó trong tâm hồn nhỏ bé của Meggie đã sớm chín muồi và cô bé trở thành một người khác có thể cảm nhận được niềm vui tràn ngập, dữ dội, ý thức rõ về sự cần thiết của mình. Meggie ngồi tay lay nhẹ đấu tóc nâu thân yêu, cứ thế cho đến khi nỗi đau ở Frank dịu bớt và tan vào khoảng trống.
Chương 5
1921−1928 Ralph
Con đường đi Drogheda chẳng gợi một chút kỷ niệm thời thơ ấu của mình - cha Ralph de Bricassart thầm nghĩ như thế. Mắt chỉ mở phân nửa đủ để chống chỏi lại ánh sáng quá chói chang giữa lúc chiếc ô tô mới hiệu Daimler đang lăn bánh trên con đường đất gồ ghề bị đào xới bởi những chiếc xe bò qua lại.
Không có chút gì êm ả, xanh tươi và mờ ảo của Ailen ở cái xứ này. Drogheda! chẳng phải chiến trường mà cũng chẳng có cuộc vây hãm của cường quốc nào trong lịch sử. Nói thế có quá lố không? Trong con người cha Ralph tính hài hước vẫn rất nhạy, nó đã vẽ ra trong ông hình ảnh một Mary Carson ác cảm và đầy quyền lực theo kiểu nhân vật Cromwell.
Cổng rào cuối cùng hiện lên đàng sau một cụm cây. Chiếc xe đỗ lại, tiếng máy nghe khá tọ Cha Ralph bước xuống, đầu đội chiếc nón rộng vành màu ghi đã bạc. Ông kéo cái chốt ra rồi đẩy cánh cổng bực bội. Có ít nhất hai mươi bảy chiếc cổng rào như thế từ nhà của cha Ralph ở Gillanbone đến lãnh địa Drogheda; cứ đến mỗi cổng rào cha Ralph phải dừng xe lại bước xuống, mở cổng rồi trở lên xe, cho xe chạy vào bên kia cổng rồi lại dừng xe lại, bước xuống đóng cổng lại, rồi lại trở lên xe cho đến cổng kế tiếp. Nhiều lúc ông có ý định giảm bớt phân nửa cái công việc đều đặn mất công ấy bằng cách bỏ lại phía sau những cái cổng không được đống lại. Nhưng dù với cương vị thầy tu khiến cho nhiều người nễ trọng nhưng ông cũng biết rằng điều đó vẫn không ngăn cản các vị chủ của những cổng rào sẽ buột ông trả một giá đắt cho sự cẩu thả của mình. Cỡi ngựa thì không đi nhanh và tiện lợi bằng xe ô tô nhưng đi ngựa lại có thể mở và đóng các cổng lại mà không cần đặt chân xuống đất. “Tấm huy chương nào cũng có bề trái của nó” vừa nói, tay cha Ralph vừa mân mê cái bảng chỉ dẫn tốc độ. Cái cổng ở phía sau đã được cài chặt lại, cha cho ô tô chạy nốt cây số cuối cùng, tiến vào chính điện của khu vực Drogheda.
Trang trại này ở úc khiến cho bất cứ ai cũng phải kính nể kể cả một người ái Nhĩ Lan quen thấy những lâu đài và dinh thự quí tộc. Drogheda là trang trại xưa nhất và rộng nhất trong vùng. Ông chủ của nó, lão Michael Carson, - đã qua đời - xây một tòa nhà rất hài hòa với khung cảnh thiên nhiên, vật liệu xây dựng là sa thạch màu vàng lấy cách đây tám cây số; kiểu kiến trúc của tòa nhà nghiêm trang theo thế kỷ thứ 18 đời vua George đệ nhất ở Anh với một tầng và những cửa sổ rộng chia thành ô vuông nhỏ; một hành lang được chịu trên những cột sắt chạy dài theo tầng trệt. Những cánh cửa sổ bằng gỗ màu đen trang điểm cho chính diện của tòa nhà cũng có công dụng của nó: giữa cái nóng oi bức mùa hè, các cánh cửa đóng chặt để giữ cái mát mẻ bên trong.
Hôm nay, trời vào thu, các gốc nho mọc lên cao những tua xoắn và lá rất xanh. Nhưng vào mùa xuân, những dây đậu tía trồng vào lúc tòa nhà vừa xây - năm mươi năm trước - kết thành một khối chắc nịch với những chùm cây tử đinh hương, cành túa ra rậm rạp, đầy hoa bám dài theo tường và trên mái hiên. Quanh ngôi nhà, nhiều hecta cỏ trải rộng như một tấm thảm, được chăm sóc rất kỹ lưỡng, rải rác đây đó là những hình khối đối xứng, dù ở mùa nào, cũng rực rỡ màu sắc; hoa hồng, thược dược, đinh tử v. v... chen nhau. Một cụm cây bạch đàn đẹp tuyệt màu trắng xám, với những chiếc lá thon dài đong đưa cách mặt đất hai mươi thước, làm cho ngôi nhà tránh được sức nóng dữ dội của mặt trời.
Ngay cả những tháp chứa nước xấu xí cũng được cái loại cây có hoa mọc đan len nhau che kín. Nhờ say mê trang trại, Michael Carson còn sống đã xây không biết bao nhiêu là tháp và bồn nước. Người ta đồn rằng Drogheda có thể giữ cho các thảm cỏ và các vườn hoa tiếp tục xanh tươi dù cho trời không mưa trong mười năm.
Cha Ralph rời ô tô, đang băng qua bãi cỏ thì một đầy tớ gái xuất hiện ở hiên trước nhà. Gương mặt cô ta đầy tàn nhang, cười hết miệng.
- Chào chị Minnie - cha Ralph lên tiếng trước.
- Thưa cha, thật hoan hỉ được gặp cha vào buổi sáng đẹp này - Tiếng của chị ta vang lên vui vẻ, pha giọng Ailen.
Một tay chị giữ cánh cửa bật mở rộng, tay ia chị đưa ra đón lấy chiến nón cũ hình dáng không có vẻ gì là đồ dùng của một tu sĩ.
Mary Carson ngồi trên chiếc ghế bành gần cửa sổ lớn mở rộng, dường như bà không chú ý đến cái lạnh đang tràn vào căn phòng này. Mái tóc màu vàng hung của bà vẫn rực rỡ không kém thời trẻ trung. Trên mặt điểm những nốt tàn nhang màu nâu vì tuổi tác, nhưng không thể che giấu được dưới những nét nhăn. Dấu hiệu duy nhất về bản tính bướng bỉnh của người đàn bà này ẩn chứa trong hai đường khắc sâu hai bên mũi chạy dài xuống mép môi và trong đôi mắt màu xanh nhợt lạnh lùng.
Cha Ralph lặng lẽ đi ngang qua tấm thảm Aubusson và hôn tay lên bà chủ trang trại. Cử chỉ đó hoàn toàn phù hợp với tầm vóc cao lớn, dáng dấp quí phái của vị linh mục. Hơn nữa chiếc áo dòng màu đen giản dị còn mang lại ông cái vẻ lịch thiệp của một nhà tụ Đôi mắt thản nhiên của bà Mary Carson bỗng sáng lên và hình như bà cố làm duyên khi lên tiếng:
- Cha dùng chút trà nhé?
- Rất sẵn sàng, thưa bà Carson nếu trước hết bà yêu cầu được xem lễ, ông đáp.
ông buông mình xuống chiếc ghế bành; chiếc áo dòng bị giật lên để lộ ra ở bên trong chiếc quần cỡi ngựa mà hai ống nhét vào đôi ủng cao đến gần đầu gối.
- Tôi có mang theo bánh thánh cho bà. nhưng nếu bà muốn xem lễ, tôi sẵn sàng làm lễ trong vài phút. Có lẽ tôi không cần phải nhịn ăn lâu hơn.
- Cha đã đối xử quá tối với chúng tôi, thưa chạ Bà nói với một thái độ khá kiêu kỳ. Bà biết chính xác là linh mục này, những như bao nhiêu linh mục khác đến với bà, không phải do lòng kính trọng mà vì đồng tiền của bà.
- Xin mời cha dùng trà - bà nói tiếp - Tôi thấy cha làm lễ đã đủ.
Cha Ralph cố che giấu những ác cảm của ông về người phụ nữ lớn tuổi này. Rõ ràng, giáo khu này lý tưởng để cho ông rèn luyện lại. Nếu có dịp thoát khỏi thờ kỳ thất sủng mà ông đã rơi vào do tánh tình kỳ khôi của mình, thì ông sẽ không bao giờ lặp lại sai lầm cũ. Và nếu ông biết giữ gìn các lợi thế sẵn có, bà già này có thể thỏa mãn những ước nguyện của ông.
- Tôi phải thú thật, thưa cha, năm vừa qua là một năm đặc biệt dễ chịu - bà ta nói. Cha là người chăn dắt được hơn cha Kelly già rất nhiều, mong Chúa trừng phạt tâm hồn mục nát của ông ấy.
Bà nói những tiếng sau cùng giọng đanh lại, thù hằn.
- Bà Carson thân mến! Đó là một tình cảm không được nhân từ lắm.
- Có thể đúng, nhưng nó là sự thật. Ông ta chỉ là một lão già say rượu và tôi tin chắc rằng Chúa sẽ khiến cho tâm hồn lão ta bị thối rữa y như sự thối rữa thân xác của lão tạ Bây giờ tôi bắt đầu hiểu cha khác nhiều. Tôi nghĩ tôi có quyền đặt ra với cha vài câu hỏi chứ? Nói cho cùng, cha coi Drogheda như nơi nghỉ ngơi của chạ Trang trại này sẽ tạo điều kiền cho cha làm quen với chăn nuôi và hoàn toàn chỉnh kỹ thuật cỡi ngựa của chạ, tránh những thăng trầm của đời sống ở Gillỵ Dĩ nhiên tất cả những chuyện đó là do sự mời mọc của tôi, nhưng ngược lại tôi có quyền đặt ra một số yêu cầu.
Cha Ralph không thể nào chấp nhận được cái cách mà bà ta nhắc nhở ông là người chịu ơn bà. Nhưng ông đoán biết sẽ có ngày bà ta đánh giá, gây ảnh hưởng, chi phối mình, đủ để có thể đưa ra một số đòi hỏi.
- Đúng thế, bà Carson. Tôi có cảm ơn bà thế nào cũng không đáp lại được sự đón tiếp ở Drogheda và tất cả những ân huệ... nào là ngựa, xe ô tô...
- Cha bao nhiêu tuổi? - bà ta cắt ngang.
- Hai mươi tám.
- Cha trẻ hơn tôi nghĩ. Dù sao người ta không gởi một linh mục như cha vào một nơi như Gillỵ Cha đã làm gì để bị người ta tống về đây, ở tận cùng thế giới?
- Tôi đã nhục mạ giám mục - Ông trả lời một cách bình thản, nụ cười trên môi.
- à! Nhưng tôi không thể tưởng tượng một linh mục có tài năng như cha lại có thể vui thích ở cái hóc xó như Gillanbone.
- Đó là ý muốn của Chúa.
- Không đúng. Cha đến đây do những sai lầm của con người... , của bản thân cha, và của vị giám mục của chạ Chỉ có Đức Giáo Hoàng là không thể sai lầm mà thôi. Cha hoàn toàn bị tách khỏi môi trường tự nhiên của mình ở Gilly; mọi người đều nhận thấy điều đó, mặc dù tất cả chúng tôi rất sung sướng có được một người như cha; sự kiện này đã mang lại cho chúng tôi một sự thay đổi dễ chịu vì cho đến nay người ta đã gửi đến đây những tên không ra gì lại mặc áo dòng - Cũng không cấm cản cái môi trường tự nhiên của cha ở trong một phòng chờ nào đó đầy quyền lực giáo hội; chớ không phải ở đây giữa ngựa và cừu. Màu đỏ tía Hồng y thật hạp với cha.
- Tôi e rằng đó không phải là vấn đề. Tôi không coi Gillanbone ở đúng ngay trung tâm lãnh thổ dành cho người đại diện của Giáo Hoàng. Tôi may mắn gặp được bà ở tại Drogheda này.
Bà Carson đón nhận lời nịnh hót được tô đậm không khác lắm với sự dự tính của người đã thốt ra. Bà thích thú về vẻ đẹp trai, sự ân cần của vị linh mục có đầu óc sắc bén và tế nhị. Thật ra ông có thể là một Hồng y tuyệt vời. Trong cả đời, bà không nhớ được khi nào đã gặp được một người đàn ông đẹp đến thế hoặc sử dụng cái đẹp của mình một cách tài tình như cha Ralph. Ông ta biết rõ sức lôi cuốn của mình: dáng dấp cao, thân mình cân đối, nét thanh và quý phái. Có thể nói mỗi yếu tố của cái đẹp thể xác ấy đều kèm theo sự chăm chút sực kỳ cái bề ngoài mà Chúa chỉ trao cho một số rất ít người. Từ mái tóc đen và mịn, đến màu xanh đáng kinh ngạc của đôi mắt, bàn tay, bàn chân thanh nhã và cân đối, ông ta thật hoàn toàn. Đúng thế, ông ta ý thức rất rõ về vẻ đẹp của mình. Thế nhưng ông ta làm ra vẻ dè dặt như muốn chứng tỏ không bao giờ ông để mình nô lệ với cái bề ngoài đẹp trai ấy. Cũng có thể ông ta sẵn sàng sử dụng sức lôi cuốn của mình để đạt được điều mong muốn không chút ngại ngùng nếu ông xét thấy cần thiết nhưng không hề tự mê hoặc. Bà Mary Carson thiết tha muốn biết điều gì đã đưa đẩy vị linh mục cư xử theo cách đó.
Thật lạ lùng. Có lắm linh mục đẹp như những chàng Adonis trong huyền thoại, cộng thêm sức quyến rũ nhục dục của một Don Jucạ Có phải chăng họ chọ sự độc thân để lánh mình trốn tránh các hậu quả.
- Tại sao cha lại chấp nhận cuộc sống ở Gillanbonẻ Tại sao cha không cởi bỏ áo dòng mà phải theo đuổi một cuộc sống như thế này? Những năng lực trời phú cho phép cha trở nên giàu có và uy quyền... Trước hết, cha đừng nói là cha dửng dưng với ý niệm về quyền lực.
- Bà Carson thân mến, bà là một tín đồ công giáo - Ông nói, mày nhíu lại - Bà biết rằng ước nguyện của tôi là thiêng liêng; tôi không thể từ bỏ. Tôi sẽ mãi mãi là linh mục cho đến chết.
Bà ta hít mạnh vào rồi cười ngặt nghẽo.
- Thôi đi, thôi đi! Bộ cha thật sự tưởng rằng nếu cha từ bỏ ước nguyện của mình, cha sẽ bị một cơn sấm chớp, chó và súng đạn rượt đuổi?
- Dĩ nhiên là không. Cũng như tôi không tin bà có thể nghĩ rằng sự sợ hãi bị trừng phạt sẽ giữ tôi lại con đường ngay.
- Ồ! Cha đừng dùng những lời lẽ trịnh trọng như thế. Thế thì cái gì ràng buộc chả Cái gì đã buột cha phải chịu đựng ở nơi bụi bặm, nóng bức và đầy mũi mòng như cái xứ Gilly này? Và nhất là cha có thể ở lại đây vĩnh viễn.
Một thoáng suy nghĩ xuất hiện trong đôi mắt màu xanh của vị linh mục nhưng ông lại mỉm cười, nhìn bà Carson thương hại.
- Quả thật bà còn sức sống lắm - Ông nói như thì thầm. Tôi đã chọn lựa trở thành linh mục khi còn ở trong nôi. Làm sao tôi có thể giải thích điều đó với một phụ nữ? Phần nào đó tôi là nơi thu nhận, thưa bà Carson, và nhiều lúc, tôi cảm thấy chúng tràn ngập trong tôi. Nếu tôi là một linh mục xứng đáng hơn, sẽ không cần một thời kỳ chuyển tiếp nào. Và cái trạng thái trọn vẹn, sự đồng nhất với Chúa không lệ thuộc ở một nơi nào nhất định, dù tôi ở Gillabone hay giữa các bức tường trong một tòa giám mục, ơn Chúa vẫn đến như nhau. Dĩ nhiên rất khó giải thích vì nó vẫn là điều huyền bí, ngay cả với các linh mục. Có phải chăng chính là thế. Từ bỏ sự thiêng liêng ấy? Tôi không thể từ bỏ được.
- Như vậy, cha giải thích có thể giống như một thứ quyền lực, phải không? Tại sao nó chỉ ban cho các linh mục? Điều gì làm cho cha tin rằng chỉ cần một lần xức dầu thánh trong một buổi lễ dài và mệt mỏi là đủ mang đến điều thiêng liêng ấy cho mọi người?
ông lắc đầu.
- Phải nhiều năm suy nghĩ trước khi được thụ phong, thưa bà Carson. Một tiến triển chậm đưa đến một trạng thái tâm hồn mở ra cho Chúa ngự. Việc thụ phong tự nó xứng đáng và mỗi ngày, chúng ta tỏ ra xứng đáng; đó là mục đích của khánh nguyện, bà thấy không? Không một yếu tố thế tục nào, xen vào giữa người giáo sĩ và thiên hướng của ông ta... kể ca tình yêu của người phụ nữ hay tiền bạc, hoặc sự ghê tởm phải khuất phục trước những mệnh lệnh của những người khác. Sự nghèo khó không phải mới lạ đối với tôi, tôi không xuất thân từ một gia đình giàu có. Tôi chấp nhận sự thanh khiết mà không thấy khó khăn lắm. Còn sự phục tùng? Đối với riêng tôi, đó là điều khó nhất. Nhưng tôi tùng phục vì rằng nếu tôi tự coi mình quan trọng hơn chức năng thừa sai của Chúa thì tôi đã lạc hướng. Tôi phục tùng. Và nếu cần, tôi sẵn sàng chấp nhận Gillanbone suốt đời.
- Như thế thì cha là thằng ngốc - bà Carson vặn lại. Tôi cũng thế, tôi cho rằng có nhiều điều quan trọng hơn là tìm cho mình một nhân tình. Nhưng tự cho mình là nơi Chúa ngự, tôi không coi đó là một trong những điều quan trọng. Tôi không bao giờ nhận ra được rằng cha lại tin ở Chúa với một nhiệt tâm như thế. Tôi nghĩ ở cha cũng có sự hoài nghi.
- Ồ, tôi cũng thế thôi! Có con người lý trí nào lại không hoài nghi! Chính vì thế mà có những lúc tôi trở nên trống rỗng. Bà biết không, tôi nghĩ rằng tôi có thể từ bỏ mọi tham vọng, và bóp chết mọi ham muốn để có hy vọng trở thành một linh mục hoàn toàn.
- Sự hoàn toàn dù ở bất cứ lĩnh vực nào cũng không thể chịu được, một thứ buồn chán thảm hại - Bà Carson nhận xét - Riêng tôi, tôi thích và thích hơn nhiều một nét nào đó không hoàn toàn.
Cha Ralph cười, nhìn bà Carson với sự ngưỡng mộ lẫn sự đố kỵ Một người đàn bà đặc biệt.
Sự góa bụa đến với bà cách đây 30 năm và đứa con duy nhất, đứa con trai, đã chết lúc tuổi còn nhỏ. Do hoàn cảnh đặc biết của bà ở giữa Gillanbone, bà đã không nhận lời bất cứ một người đàn ông nào hỏi cưới bà trong số những người nhiều cao vọng nhất mà bà có quan hệ Với tư cách vợ góa của Michael Carson, bà là một bà hoàng không thể chối cãi. Nhưng với tư cách vợ của một gã nào đó bà đành chuyển cả quyền lực của mình cho người mình chọn. Chính vì thế mà bà từbỏ các khoái lạc xác thịt, thích cầm lấy cây gậy quyền hành hơn. Thật khó tưởng tượng được bà ta lấy chồng ở cái xứ Gillanbone này vốn rất thích cái món ngồi lê đôi mách, nói xấu. Thì đã ra sao. Biết đâu bà lại không đi ngược lại cách xử thế lâu nay và trở nên nhân hậu, yếu đuối.
Nhưng bây giờ bà đã khá lớn tuổi và người ta biết rằng bà ở ngoài vòng cám dỗ xác thịt. Khi vị linh mục trẻ tỏ ra cần mẫn trong các nhiệm vụ, bà có thể trả ơn ông bằng những món quà nhỏ, như chiếc ô tộ Cử chỉ đó không hề bị coi là khiếm nhã. Là cột cụ không hề lay chuyển của nhà thờ trong suốt cuộc đời, bà đã giúp cho xứ đạo và người dìu dắt tinh thần đúng như điều nên làm, ngay cả khi cha Kelly say mèm lảo đảo trong khi làm lễ. Bà không phải là người duy nhất quan tâm một cách đặc biệt người thay thế cha Kelly; cha Ralph de Bricassart xứng đáng được lòng tất cả các con chiên nghèo cũng như giàu. Nếu giáo dân ở xa nhất không có khả năng đến gặp ông ở Gillanbone thì ông đến với họ và cho tới khi Mary Carson tặng cho ông chiếc ô tô Daimler, ông di chuyển bằng ngựa. Sự kiên nhẫn và lòng tố của ông khiến cho mọi người đều biết ơn. Một số người yêu mến ông một cách chân thành; chẳng hạn như Martin King ở Bugela đã trang hoàng lại rất tốn kém nhà xứ; Dominique Ó Rourke ở Dibbanđibban trả tiền lương hàng tháng cho người quản gia giỏi giang.
Do đó, đứng trên đài cao của tuổi tác và đơn vị, Mary Carson tự cho phép mình được hưởng mối quan hệ thân mật với cha Ralph mà không hề sợ tai tiếng. Bằng thích tấn công ông bằng trí tuệ, con người mà bà đánh giá ngang mình về mặt này. Bà lấy làm thích thú khi tìm cách xuyên thủng các ý nghĩ thầm kín của cha Ralph bởi vì bà chưa bao giờ tin rằng mình đã hiểu rõ con người này.
Minnie đẩy chiếc bàn có bốn bánh xe nhỏ vào phòng, trên đó đặt trà và bánh ngọt.
Mary Carson trao cho khách bánh galét và lát bánh mì nướng.
- Cha thân mến - bà nói sau một tiếng thở ra - tôi mong cha sẽ cầu nguyện cho tôi với một sự nhiệt tình đặc biệt như sáng nay.
- Bà hãy gọi tôi là Ralph. Tôi nghi ngờ về khả năng tôi cầu nguyện cho bà với một nhiệt tình cao hơn mọi khị Tuy nhiên tôi sẽ cố gắng.
- Ồ, cha quả là người quyến rũ! Nhưng nhận xét của cha không hồn nhiên như người ta tưởng. Nói chung, tôi không quan tâm đến cái gì đương nhiên có, nhưng ở cha tôi không dám tin chắc rằng điều đập vào mắt thật ra chỉ là cái phần chìm dưới nước của tảng băng; phần nào đó giống như củ cà rốt mà người ta nhử trước con lừa. Thật sự cha nghĩ thế nào về tôi, cha De Bricassart? Tôi sẽ không bao giờ biết được điều đó vì rằng cha là người quá tế nhị phải không? Thật quyến rũ, quyến rũ... Nhưng cha nhớ hãy cầu nguyện cho tôi. Tôi già rồi và phạm nhiều tội lỗi.
Rồi bà Carson cười khúc khích.
- Tôi rất muốn biết được cha đã phạm tội như thế nào? Đúng thế, tôi rất muốn biết. Trong lúc này, tôi đang thiếu một người quản lý.
- Lại thiếu nữa?
- Có tất cả năm người lần lượt làm công việc ấy trong năm quạ Thật khó mà tìm được một người tin cậy.
- Nếu dư luận đồi đãi mà đúng thì rõ ràng bà không phải là một người chủ quảng đại và tốt bụng đối với những người làm công.
- Ồ sao lại ăn nói trâng tráo thế - Mary Carson vừa nói vừa cười - Ai đã tặng cho cha chiếc Daimler mới toanh để cho cha khỏi phải đi ngựa.
- à! Nhưng bà cũng thấy với nhiệt tình của tôi như thế nào khi cầu nguyện cho bà.
- Nếu Michael có được một chút trí tuệ và cá tính của cha, tôi tin rằng tôi đã yêu anh ấy - Bà ta buông câu nói đột ngột (sắc mặt của bà đổi ngay và trở nên cau có) có lẽ cha nghĩ rằng tôi không còn một người bà con nào ở trên cõi đời này và tôi buộc phải để lại tiền bạc, đất đai cho Mẹ của giáo hội chúng ta?
- Tôi hoàn toàn không biết một tí gì - cha Ralph đáp lại một cách thản nhiên, tay vừa châm trà vào tách.
- Đây nhé, tôi vẫn còn một người em gia đình đông con phần nhiều là con trai.
- Bà quả thật rất may mắn - giọng cha Ralph nghiêm nghị.
- Khi tôi lấy chồng, tôi hoàn toàn không có một tài sản đất đai nào. Lúc đó tôi biết rằng tôi không thể kiếm một tắm chồng khá giả ở Ailen nơi mà một cô gái muốn câu được một ông chồng giàu phải có học và thuộc dòng dõi tiếng tâm. Cho nên tôi đã làm ăn vất vả để dành dụm một số tiền đủ để đi đến một nước khác, ở đó đàn ông giàu có và ít đòi hỏi hơn. Khi đặt chân lên đất này, tôi chỉ biết dựa vào gương mặt dễ coi, vóc dáng và một bộ Óc trên trung bình của mình. Như thế tôi đã đóng đinh Michael Carson, một thằng giàu ngu độn. Ông ta yêu tôi cho đến hơi thở cuối cùng.
- Còn người em của bà? - Cha Ralph vội vàng hỏi với hy vọng kéo bà ta trở lại đề tài chính.
- Em trai tôi Padraic nhỏ hơn tôi 11 tuổi. Vậy là hắn đã 54 rồi. Chúng tôi là hai kẻ duy nhất của gia đình còn sống sót lại. Tôi biết rất ít về em tôi vì khi tôi rời Galway nó vẫn còn quá nhỏ. Hiện nay em tôi sống ở Tây Tây Lan. Nó đã bỏ xứ ra đi mưu tìm sự nghiệp nhưng lại không thành công. Tối hôm kia lúc một trong những công nhân của tôi đến cho hay tên quản gia Arthur Teviot đã chuồn với bọc quần áo của hắn, tôi chợt nghĩ đến Padraic, một người sống chết với đất đai, nhiều kinh nghiệm nhưng không có điều kiện để trở thành ông chủ. Thế thì tại sao tôi không viết thư cho em tôi và yêu cầu Padraic đưa con cái đến đây làm ăn sinh sống - Tôi đã tự nói với mình, khi tôi chết, sẽ cho nó thừa kế Drogheda và công ty Michael Limited vì nó là bà con gần nhất của tôi, không kể vài người anh em bà con xa xôi còn ở lại Ailen.
Bà cười và nói tiếp:
- Tại sao lại phải chờ đợi? Nó đến ngay bây giờ vẫn tố hơn là khi tôi đã chết. Ngay bây giờ nó có thể làm quen với công việc nuôi cừu trên những cánh đồng đất đen mà theo tôi rất khác xa với các điều kiện ở Tây Tây Lan. Sau đó, khi tôi không còn nữa, nó đã có thể mang đôi ủng của tôi một cách thoải mái
Đầu hơi nghiêng, bà quan sát rất kỹ cha Ralph.
- Tôi tự hỏi tại sao bà không nghĩ đến chuyện này sớm hơn - Ralph chỉ nói thế.
- Ồ, tôi có nghĩ chứ! Tuy nhiên gần đây, tôi muốn tránh bằng mọi giá cái đám kên kên chờ đợi một cách sốt ruột ngày tàn của tôi. Tôi có cảm giác là cái ngày của số mệnh gần kề và tôi tin rằng... Ồ! Tôi không biết. Gía mà cái ngày ấy quanh tôi là những người ruột thịt chắc là những người ruột thịt chắc là tôi sẽ dễ chịu hơn.
- Chuyện gì đã xảy ra, bà đang bệnh? Cha Ralph hỏi dồn đầy lo âu.
- Tôi hoàn toàn khỏe mạnh - Bà Mary Carson nhún vai - Tuy nhiên, vượt qua cái tuối 65 cũng có cái gì đáng lo ngại.
- Tôi hiểu, và bà rất có lý. Chắc hẳn bà muốn được nghe những giọng nói trẻ trung trong ngôi nhà này.
- Ồ, họ không ở đây đâu - Bà Carson kêu lên - Họ sẽ ở tại nhà dành cho quản lý, nằm bên con suối cách đây không xạ Đặc biệt tôi không thích trẻ con, kể cả tiếng nói của chúng.
- Phải chăng làm như thế là keo kiệt với em trai duy nhất của bà?
- Nó sẽ có gia tài... vậy nó phải xứng đáng để được nhận cái gia tài đó! Bà Carson nói một cách sòng phẳng.
Fiona lại sinh thêm một đứa bé trai sáu ngày trước khi Meggie kỷ niệm sinh nhật lần thứ chín. Bà coi đó la điều may mắn sau hai lần sẩy thai. Chín tuổi, Meggie có thể giúp đỡ cho mẹ. Fiona đã bốn mươi - cái tuổi không còn trẻ để sinh con mà không thấy cực nhọc và mất sức. Đứa con trai kém sức khỏe được đặt tên là Harold, và đây là lần đầu tiên bà phải nhờ bác sĩ đến nhà chăm sóc thường xuyên.
Đúng là họa vô đơn chí, biết bao nhiêu khó khăn lại chồng chất lên gia đình Clearỵ Sau chiến tranh thời kỳ phát triển vẫn còn là chuyện xa vời, tệ hơn nữa các miền quê đang bước vào cơn khủng hoảng nên việc làm càng ngày càng khó hơn.
Lão Angus Mac Whirter một hôm mang đến cho gia đình bức điện lúc buổi cơm trưa vừa xong. Hay tay run run. Pađy mở phong thư ra: một bức thư gởi như thế thường không phải là những tin vui. Mấy đứa con trai tụ tập lại quanh ông, chỉ trừ Frank cầm tách trà và rời khỏi bàn ăn. Fiona nhìn theo Frank rồi quay nhìn ông chồng. Pađy lẩm bẩm gì đó.
- Chuyện gì đó hở anh? Bà hỏi chồng đang nhìn tờ giấy và ông trả lời như một tin báo tử.
- Archibald không cần cha con chúng ta - Bob đấm mạnh một cách tức giận xuống bàn. Anh đã quá hy vọng về việc theo tập sự làm thợ cắt long cừu mà khởi đầu là đàn cừu của Archibald.
- Tại sao hắn lại chơi mình một vố đau như vậy hở bả Đáng lẽ ngày mai chúng ta đã bắt đầu.
- Hắn không nêu ra lý do nào cả. Ba đoán chắc một tên vô loại nào đó đã hạ giá thấp để “chặt co” dưới chân chúng ta.
- Ồ, Pađy! Bà vợ thở ra.
Đứa bé mà cả nhà gọi là Hal bắt đầu khóc trong chiếc nôi đặt gần nhà bếp. Fiona chưa kịp quay lại thì Meggie đã nhanh chân đến bên em. Frank vừa trở lại đứng gần cửa, vẫn tách trà trên tay, anh nhìn cha một cách chăm chú.
- Vậy thì bắt buộc tôi phải đi gặp Archibald - Cuối cùng Pađy đã nói như thế - Bây giờ đã quá trễ để đi tìm một chỗ có người thuê cắt lông cừu. Tôi cho rằng hắn phải giải thích với tôi rõ ràng. Chúng ta chỉ còn hy vọng kiếm được công việc vắt sữa cho đến khi đến Willoughly vào tháng bảy.
Trong khi nhìn Meggie thay tã cho em, Frank trêu chọc:
- Một người mẹ nhỏ...
- Ồ, đừng nói thế - Meggie bẻ lại, giận dỗi - Em chỉ giúp mẹ thôi mà...
- Anh biết - Frank gật đầu dễ thương - Em là một cô gái rất tốt, Meggie bé nhỏ của anh.
Nếu không vì Meggie và mẹ, Frank đã dứt khoát rời khỏi ngôi nhà này. Anh nhìn cay độc về phía cha, người trách nhiệm chính về cuộc sống mới có lắm xáo trộn trong gia đình.
Vì đã lớn Frank không bị đuổi ra khỏi nhà lúc mẹ sinh bé Hal, cho nên anh nghe tất cả những tiếng rên la khủng khiếp từ phòng mẹ hôm Hal ra đời. Chưa có một người phụ nữ nào lại chịu một thử thách ghê gớm như thế - anh đã lặp lại câu này cả ngàn lần. Một người đàn ông ích kỷ, không chịu để cho vợ được yên.
Meggie đặt Hal trở vào nôi và đến đứng bên cạnh mẹ. Lại một cô gái mà cuộc đời sau này sẽ vứt đi - Frank chua xót thầm nghĩ. Cũng gương mặt nghiêng nghiêng, sự nhạy cảm có cái gì đó của mẹ trong đôi tay, trong thân hình nhỏ bé của Meggiẹ Cô bé sẽ giống mẹ rất nhiều khi trở thành một phụ nữ. Meggie sẽ lấy ai làm chồng? Một thằng bặm trợn nào khác làm nghề cắt lông cừu người Ailen hay một tên nào đó thô lỗ, dơ dáy, làm mướn tại một hãng sữa ở Wahinẻ Con bé xứng đáng có một người chồng hơn thế nhưng gốc gác gia đình không cho phép Meggie đòi hỏi cao hơn. Tình thế bế tắc, đó là điều mà ai cũng nói đến và mỗi năm như khẳng định thêm lời tuyên án này.
Đoán biết cái nhìn chăm chú của Frank; Fiona và Meggie quay lại, cùng một lúc cả hai cười thật trìu mến, nụ cười mà phụ nữ thường chỉ dành cho người mình yêu thương nhất. Frank đặt tách trà xuống rồi đi ra sân cho chó ăn, anh thèm được khóc hay giết người miễn là làm sao vơi đi sự đau khổ.
Ba ngày sau Pađy nhận được tin buồn từ Archibald thì thư của Mary Carson đến. Ông mở thư ngay tại trạm bưu điện Wahine và trở về nhà vui mừng nhảy nhót như một đứa trẻ con.
- Chúng ta sẽ đi úc! ông hét lên, tay giơ cao những tờ giấy trắng mịn đắt tiền trước sự ngơ ngác của gia đình.
Im lặng. Mọi người nhìn ông. Sắc mặt của Fiona lộ nét băn khoăn, Meggie cũng thế, nhưng ánh mắt của mấy đứa con trai thì đầy niềm vui. Mắt Frank sáng chói.
- Nhưng này Pađy, tại sao chị ấy bỗng nhiên nhớ đến anh sau bao nhiêu năm xa cách? - Fiona hỏi chồng sau khi đọc lá thự Từ lâu nay chị ấy vẫn giàu có và vẫn sống cô độc. Thế nhưng có lúc nào bà ấy ngỏ lời giúp đỡ chúng ta đâu.
- Hình như chị ấy sợ chết một mình - Pađy nói để vừa xua đuổi nỗi lo sợ của mình vừa làm yên lòng Fionạ Em có thấy chị ấy nói: chị không còn trẻ và gia đình các em là những người thừa kế của chị. Chị nghĩ rằng chúng ta nên gặp nhau trước khi chị chết và đã đến lúc em tập làm người quản lý của chị, đó là một cách đào tạo tốt. Các con của em đã đến tuổi làm việc, cũng có thể tham gia có hiệu quả vào việc chăn nuôi. Drogheda sẽ trở thành một kiểu làm ăn gia đình, điều khiển bởi gia đình, không cần sự tiếp tay từ bên ngoài.
- Chị ấy không nói gì đến chuyện gởi tiền cho chúng ta đi à?
Pađy ưỡn người lên vàdứt khoát:
- Không bao giờ tôi chịu hạ mình xuống xin xỏ chị ấy! Chúng ta có thể đến úc mà không cần ăn mày tiền của chị ấy. Tôi có một số tiền dành dụm lâu nay.
- Tôi nghĩ đúng ra chị ấy phải chịu cái khoản chi phí này chứ - Fiona vặn lại không chịu bỏ qua.
Sự bướng bỉnh của Fiona làm ai cũng ngạc nhiên bở lâu nay ít khi Fiona nói năng như vậy.
- Tại sao anh lại từ bỏ cuộc sống của anh tại đây và đi làm việc cho chị ấy chỉ vì tin vào một lời hứa trong thử Chị ấy chưa bao giờ nhúc nhích một ngón tay để giúp chúng ta, tôi không tin ở chị ấy. Tôi nhớ đã nghe chính anh nói về chị ấy tựu chung chị ấy có những ngón tay cong quắp đáng tởm hơn cả bọn người bòn rút từng xụ Anh Pađy à, dù sao thì anh cũng không biết rõ chị ấy; anh và chị ấy cách xa nhau về tuổi, chị ấy đi lúc trước khi anh bắt đầu đi học kia mà.
- Anh thấy điều đó chẳng ăn thua gì. Và nếu chị ấy thuộc loại người bòn rút từng xu, lại càng tốt, vì như thế chẳng qua là chúng ta sẽ được nhiều tiền hơn. Đừng kèo nài nữa Fiona à. Chúng ta sẽ đi úc và chúng ta sẽ tự lo cho chuyến đi ấy.
Fiona không nói thêm một lời. Trên sắc mặt bà không để lộ một nét nào để có thể biết bà bị tổn thương hay không.
- Hoan hô, chúng ta sẽ đi úc! Bob ôm lấy vai cha nói lớn.
Jack, Hughie và Stuart nhảy múa lung tung còn Frank chỉ mỉm cười, mắt nhìn xa xăm. Chỉ có Fiona và Meggie là buồn và lo ngại. Cả hai hy vọng rằng mọi chuyện sẽ không đến đâu vì cuộc sống ở úc chưa chắc sẽ dễ dàng hơn, bên ấy cũng sẽ y hệt như ở đây mà lại thêm sự lạc lõng vì lạ xứ lạ người.
- Gillanbone ở đâu bả - Stuart hỏi.
Một tấm bản đồ thế giới cũ kỹ được đem ra. Mấy đứa con trai mở to mắt nhìn những tờ giấy ngả màu vàng ố cho đến khi phát hiện ra New South Wales, diện tích tương đương với Bắc đảo của Tây Tây Lan. Và kìa Gillabone ở phía trên góc.
- Đây là tấm bản đồ rất cũ, Pađy giải thích. úc châu giống như châu Mỹ, phát triển với những bước vĩ đại. Tôi tin chắc rằng cho tới nay đã có nhiều thành phố được xây dựng.
Pađy đi Wanganni để giữ tám chỗ nằm trên tàu thủy Wahinẹ Phải mang mấy con chó cho hàng xóm, bán rẻ một số bàn ghế, chỉ giữ lại một vài món mà Fiona cần thiết. Chén, dĩa, quần áo, sách vở và dụng cụ nhà bếp đều được đóng thùng mang xuống tàu.
Cuộc hành trình đúng là cơn ác mộng. Trước khi tàu Wahine rời cảng Wellington, tất cả đã say sóng và cứ trong tình trạng đó chịu đựng suốt một ngàn hai trăm hải lý trên mặt biển động với những cơn gió mùa đông.
Bốn tiếng đồng hồ sau khi rời Wellington, Frank và Meggie vẫn luôn ở bên mẹ và em bé, tưởng đâu mẹ mình sắp chết. Người phục vụ trên tàu mời một y sĩ từ những buồng hạng nhất xuống khám Fionạ Ông ta đã lắc đầu bi quan.
- Mong sao cho cuộc hành trình sớm kết thúc - Ông ta chỉ nói thế.
Liền đó, ông ra lệnh cho y tá tìm sữa cho đứa bé.
Frank và Meggie vẫn cố gắng cho bé Hal bú nhưng Hal không thiết tha lắm khi bình sữa được đưa vào miệng.
Còn ba tiếng đồng hồ nữa đến Sydney, biển đột ngột phẳng lặng như mặt gương. Meggie bắt đầu tỉnh lại, tưởng tượng rằng chiếc tàu đang rên siết sau những đòn nhừ tử chịu đựng sóng gió.
Meggie không bao giờ quên những tiếng còi buồn bã rú lên trong sương mù, ấn tượng đầu tiên khi đến úc.
Pađy đã bồng Fiona trên tay khi rời tàu Wahine, tiếp theo là Frank với em bé, Meggie với một vali và mỗi đứa con trai bước đi chệnh choạng, lưng còng dước sức nặng của một thứ nào đó. Họ đến Pyrmont - cái tên hoàn toàn vô nghĩa đối với họ - vào một buổi sáng mùa đông đầy sương mù, cuối tháng tám 1921. Một hàng xe tắc-xi nối đuôi nhau đậu trước bến tàu. Mắt Meggie mở to ra, miệng há hốc, đứng nhìn; chưa bao giờ cô bé lại thấy lắm ô tô tập trung lại một nơi như thế. Pađy dồn được cả nhà lên một chiếc tắc-xị Tài xế gợi ý đưa họ đến khách sạn Cung nhân nhân.
- Nơi này thích hợp nhất cho gia đình ông bạn - hắn giải thích với Pađỵ Đây là một khách sạn dành cho công nhân do những người thuộc Đạo quân cứu thế quản lý.
Các con đường rộng đầy xe, chạy đủ hướng. Có rất ít ngựa. Chóa mắt, họ nhìn ngắm những tòa nhà cao bằng gạch, ngạc nhiên về những bước đi tất bật của khách bộ hành ở Wellington. Thủ đô Tây Tây Lan đã để lại dấu ấn đối với họ nhưng so với Sydney thì nó chỉ như một thị trấn.
Trong khi Fiona nghỉ ngơi ở một trong vô số những phòng của khách sạn được gọi một cách trìu mến Cung nhân dân, Pađy đi đến nhà ga trung tâm để hỏi giờ tàu lửa đi Gillanbone.
Ngay tối hôm đó họ lại lên tàu. Nếu không đi ngay chuyến này họ phải nằm khách sạn thêm một tuần nữa mới có tàu đi Gillanbonẹ Trước khi lên tàu, Pađy đã đánh điện cho Mary Carson báo trước tin họ sẽ đến vào chiều mai.
Pađy tìm được một ngăn trống trên toa tàu hạng ba cho cả gia đình. Những người lên sau ghé đầu vào tìm chỗ đều kinh hãi bỏ đi khi thấy lúc nhúc trẻ con.
Sáng hôm sau, mở choàng mắt ra, họ kinh ngạc và lo âu trước cảnh vật hết sức lạ lùng ngoài sự tưởng tượng. Hóa ra có một nơi như thế này trên trái đất hay sao? Vẫn là những thung lũng nhỏ có vẻ dịu dàng như ở Tây Tây Lan nhưng không có chút gì gợi đến miền đất vừa bỏ đi. Chỉ có màu nâu và màu xám, kẻ cả cây lá! Lúa mì mùa đông đã ngả sang màu bạc pha vàng hung dưới ánh nắng dữ dội của mặt trời. Fiona nhìn cảnh vật không để lộ xúc động còn Meggie thì nước mắt ràn rụa. Thật ghê tởm, mênh mông và không có một dấu vết của màu.
Gillanbone xuất hiện lúc ánh mặt trời sắp tắt. Một sự tập hợp đẹp mắt những căn nhà gỗ với tôn dợn sóng đã cũ. Hai bên con đường chính đầy bụi bặm, không có cây và buồn tẻ.
Những tia sáng cuối cùng của mặt trời phủ lên một màu vàng hào nháng, đem lại cho thị trấn cái uy thế ngắn ngủi mờ dần. Gia đình Cleary đứng tại nhà ga mở to mắt nhìn. Nơi đây là một tập hợp dân cư trưng ở ngoài rìa cũng những vùng đất đai khô cằn. Nơi cuối cùng của một vùng còn nhận được những trận mưa không xa lắm về hướng Tây, bắt đầu ba ngàn cây số đất sa mạc.
Một chiếc ô tô lộng lẫy đậu ở sân ga, một linh mục tiến đến gần họ bằng những bước dài mà không cần chú ý đến lớp bụi dày. Chiếc áo dòng dài gợi nhớ hình ảnh của quá khứ; hình như ông không đi trên hai chân như một người bình thường, mà lướt nhẹ như trong một giấc mơ; xung quanh ông bụi tung lên từng đợt.
- Xin mừng tất cả đã đến bình yên, tôi là cha De Bricassart, vừa nói ông vừa đưa tay ra bắt tay Pađỵ Tôi không thể nào lầm, ông đúng là em trai của bà Mary, ông giống bà ấy như hai giọt nước (ông quay sang nắm tay Fiona đưa lên môi với một nụ cước hết sức chân thành. Hơn ai hết, cha Ralph nhận ra ngay, đó là một người phụ nữ đáng kính). Bà rất đẹp - Ông nói câu ấy như thể nhận xét vừa rồi của ông là chuyện tự nhiên đối với một linh mục, rồi ông đưa mắt về phía anh em gia đình Cleary đang tập trung ở một góc.
Mắt ông dừng một lúc, ngạc nhiên nhìn Frank bế Hal trên taỵ Phía sau đám con trai, Meggie đứng nhìn cha Ralph, miệng hé mở, tần ngần một chút như vừa chứng kiến sự xuất hiện của Chúa. Không quan tâm đến chiếc áo dòng bằng vải mịn phết xuống đất, ông vượt qua đám con trai đến ngồi trước mặt Meggie đặt hai bàn tay chắc rắn lên tay cô bé như dịu dàng che chở:
- Thế nào! Con tên gì? Cha Ralph hỏi với nụ cười.
- Meggie - cô bé trả lời.
- Em tôi, tên Meghann - Frank xen vào hai mày nhíu lại tỏ vẻ bực mình con người dẹp trai và cao lớn ấy.
- Meghann là cái tên tôi ưa thích (ông đứng dậy nhưng vẫn giữ tay Meggie trong tay mình). Tốt nhất là các bạn đến nghỉ đêm tại nhà xứ, ông vừa nói vừa dẫn Meggie đến xe ô tộ Tôi sẽ đưa các bạn đến Droghela sáng mai; trang trại quá xa nên sau một cuộc hành trình dài bằng tàu hỏa thế này, chúng ta chưa thể đi ngay được chiều nay.
Khách sạn Hoàng Gia, nhà thờ công giáo, trường học của nhà thờ, tu viện và nhà xứ là những ngôi nhà bằng gạch hiếm hoi ở Gillanbone; tất cả các nhà khác, kể cả trường lớn của thị xã, đều bằng gỗ.
Bây giờ bóng tối đã phủ trùm, trời trở lạnh không thể tưởng tượng; nhưng phòng khách nhà xứ, ngọn lửa của lò sưởi đang cháy và từ một gian kế đó một mùi thơm dịu dàng hấp dẫn thoang thoảng bay quạ Bà quản gia người Scotland da nhăn nheo, miệng luôn nói. Đã quen với sự lạnh nhạt của các linh mục ở Wahine, gia đình Cleary vẫn xa lạ trước vẻ hiền lành chất phác nổi bật ở cha Ralph. Chỉ có Pađy là chậm, không có gì ngạc nhiên vì ông liên tưởng đến lòng nhân hậu của các tu sĩ vùng Galway quê hương của ông vẫn thường có cách đối xử tốt với người nghèo khó. Với ông, tôn giáo là hơi ấm và niềm an ủi; còn với những người khác trong gia đình ông thì tôn giáo là một khái niệm ăn sâu đầy sợ hãi, là sự khép mình vào một cách xử thế chệch ra ngoài nếu muốn tránh bị đày xuống địa ngục.
Khi mọi người đã về phòng, cha Ralph ngả người thoải mái trong chiếc ghế bành, mải mê nhìn ngọn lửa, đốt một điếu thuốc và mỉm cười. Trong đầu ông hiện lại đầy đủ hình ảnh gia đình Cleary, đúng như lần đầu ông đã gặp ở sân gạ Người đàn ông thật giống Mary Carson, nhưng lưng còng vì làm lụng vất vả và rõ ràng không hề có nét thâm hiểm của người chị - Vợ Ông ta, đẹp, mỏi mệt, tưởng như vừa bước xuống từ trên chiếc xe sang trọng được kéo bởi những con ngựa trắng.
Frank, cau có, mắt đen, thật đen; các đứa con trai khác giống cha, ngoại trừa đứa nhỏ nhất giống mẹ. Stuart, thằng này lớn lên sẽ rất đẹp. Đứa bé còn bồng không thể biết nó sẽ ra sao, và cuối cùng là Meggie.
Đây là đứa con gái đẹp và đáng yêu nhất mà ông chưa từng gặp. Màu tóc không thể nào mô tả được, không nâu mà cũng không vàng một sự hòa hợp tuyệt vời của hai màu. Cô bé đã nhìn ông bằng đôi mắt xám ánh lên màu bạc, con người trong suốt óng ánh như những viên ngọc. Nhún vai, ông ném điếu thuốc vào lò sưởi và đứng dậy.
Sáng hôm sau, ông đưa những người khách đi Droghedạ Quen thuộc với cảnh vật dọc đường, bằng những nhận xét của mình, ông gây thích thú cho những người ngồi trên xe. Hôm nay trời nóng bức, như hôm qua.
Tất cả ngồi chiếc Daimler tiện nghi gấp bội tàu hỏa.
- Các con cừu ở đây sẫm quá! Meggie nhận xét buồn bã; ánh mắt mất hút theo những chấm đỏ li ti mà người ta có thể đoán là những cái mũi đang chúi xuống cỏ.
- à, tôi thấy đúng ra nên chọn Tây Tây Lan, linh mục nói. Đó là một xứ giống như ái Nhĩ Lan và nơi các con cừu đều có một màu trắng sữa đẹp.
- Vâng, ở đây giống Tây Tây Lan nhiều thứ - Pađy tiếp lời - Ở đó cũng có một thứ cỏ xanh mướt, nhưng hoang dã hơn.
Pađy có vẻ cảm tình sâu đậm đối với cha Ralph. Đúng lúc đó, những con đà điểu tập hợp thành một đàn đứng phắt chệnh choạng rồi bắt đầu chạy nhanh như gió, chân cao lỏng khỏng rất khó nhìn rõ, cổ dài thẳng lên. Bọn trẻ con nín thở rồi cười rộ lên, thích thú được xem những con chim to lớn chỉ chạy chớ không bay.
Sau những xúc động mà úc châu nhanh chóng mang đến, trang trại Drogheda xuất hiện, gợi cho họ nhớ đến một phần Tây Tây Lan với tiền sảnh của tòa nhà theo kiểu thời vua George, những cây đậu chổi um tùm và hàng ngàn cây hồng.
- Mình sẽ ở đây à? Meggie hỏi.
- Không hoàn toàn đúng như thế - Linh mục lên tiếng rất mau - Ngôi nhà mà các bạn đến ở cách đây một kilomet rưỡi, phía dưới thấp một chút, cạnh bên con suối.
Mary Carson chờ họ trong phòng khách rộng thênh thang. Bà không có một động tác nào để đón em trai mình; Pađy phải đến chỗ bà đang ngồi.
- Thế nào, Pađỷ Bà hỏi nhỏ nhẹ nhưng mắt bà liếc nhìn qua phía cha Ralph đang bế Meggie trên tay, hai cánh tay cô bé choàng lấy cổ chạ Mary Carson đứng dậy một cách nặng nề, không chào Fiona hoặc bất cứ ai.
- Chúng ta sẽ xem lễ tức thời, bà nói. Tôi biết chắc cha Ralph rất nóng lòng đi ngay.
- Không đâu bà Mary thân mến (ông cười, mắt long lanh). Tôi sẽ làm lễ, rồi tất cả chúng ta sẽ dùng chung một buổi cơm trưa ngon miệng và sau đó tôi sẽ chỉ cho Meggie cái nhà sẽ ở như tôi đã hứa với cô bé.
- Meggiẻ Mary Carson ngạc nhiên.
- Vâng, đây là Meggiẹ Nhưng chúng ta đã làm quen không đúng trình tự của nó, tôi xin giới thiệu cho đúng. Bà Mary, tôi xin giới thiệu Fiona.
Mary Carson bày tỏ sự đồng ý bằng một cái gật đầu gọn lỏn và sau đó không chú ý đến mấy cậu con trai mà cha Ralph lần lượt gọi tên. Bà quá chăm chú quan sát linh mục và Meggie.
Nơi ở dành cho người quản lý được xây theo kiểu nhà sàn bên cạnh con suối hẹp khoảng mười mét với hàng bạch đàn hai bên bờ. So với sự nguy nga của tòa nhà bà Mary Carson, ngôi nhà có vẻ trơ trọi nhưng nó cũng đủ những tiện nghi như căn nhà ở Tây Tây Lan. Đồ đạc bày biện trong nhà theo kiểu thời Victoria, bên trên phủ một lớp bụi mỏng.
- Các bạn rất may mắn, có một phòng tắm trong nhà, linh mục dẫn đường phía trước vừa đi vừa giải thích. Nhà xây trên các cọc khá cao vì vào mùa còn suối lớn ra đột ngột, mực nước lên rất cao, tôi nghe nói, có lần lên cao đến 17 mét trong một đêm.
- Người ở nhà này trước đây không được sạch sẽ lắm - Fiona nhận xét mấy ngón tay chạm vào lớp bụi phủ trên tủ buýt-phê.
Cha Ralph cười to lên.
- Đừng có mong tẩy sạch lớp bụi này - Ông giải thích - Nơi chúng ta ở thuộc vùng bên trong và có ba thứ mà bà sẽ phải chịu: sự nóng bức, bụi và ruồi. Dù bà có làm gì đi nữa cũng không đổi khác được.
- Cha rất tốt đối với chúng tôi - Fiona nhìn linh mục nói.
- Cũng là chuyện bình thường thôi, hai ông bà là những bà con duy nhất của người bạn tốt của tôi, bà Mary Carson.
Không để xúc động, Fiona nhún vai.
- Tôi không quen duy trì những quan hệ thân thuộc với các linh mục. Các linh mục ở Tây Tây Lan không can dự vào việc riêng của các con chiên.
- Bà không phải là người theo đạo công giáo?
- Pađy theo đạo công giáo - Dĩ nhiên, con cái cũng được dạy dỗ theo tôn giáo của anh ấy. Tất cả, cho đến đứa cuối cùng...
- Có phải vì thế mà bà không vừa lòng?
- Với tôi hoàn toàn không thành vấn đề.
- Bà đã được.
- Tôi không phải là kẻ đạo đức giả, thưa cha De Bricassart. Tôi đã mất đức tin đối với chính tôn giáo của tôi và tôi không mong muốn theo một tôn giáo khác cũng hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi.
- Tôi hiểu.
Cha Ralph quan sát Meggie đang đứng ngoài hiên trước nhà và nhìn ra con đường dẫn đến tòa nhà lớn Droghela.
- Con gái của bà đẹp quá. Ông lại nói. Tôi vẫn đặc biệt thích mái tóc màu vàn vơnidợ Màu tóc ấy của cô bé sẽ khiến ngay cả danh họa Le Titien cũng chạy tìm bút vẽ. Tôi chưa từng thấy màu tóc như thế bao giờ, có phải đó là con gái duy nhất của bà?
- Vâng. Cứ toàn là con trai, trong gia đình của Pađy và của tôi cũng thế. Con gái rất hiếm.
- Tội nghiệp cô bé, ông nói thầm, nhưng chẳng hiểu tại sao.
Chương 6
Lúc đầu, những con số làm cho các thành viên của gia đình Cleary sững sờ. Drogheda có một diện tích cả trăm ngàn hectạ Đường ranh dài nhất có tới 130 kilomet. Sáu mươi lăm kilomet và 27 cái cổng rào ngăn cách căn nhà chính với Gillabone, điểm dân cư duy nhất nằm trong vòng 150 kilomet.
Pađy và các con trai như ở trên mây. Có khi họ Ở trên lưng ngựa nhiều ngày liền cách xa nhà nhiều kilomet. Buổi tối, họ cắm trại dười bầu trời đầy sao khiến cho họ thỉnh thoảng tưởng như mình đã hòa nhập cùng Chúa.
Nhưng phụ nữ ở cái xứ này lại bị buộc chân ở nhà, họ thấy cuộc đời không có gì thích thú. Họ không có điều kiện giải trí và cả lý do để leo ngồi lên lưng ngựa. Vẫn là những công việc nhàm chán, dai dẳng như nấu nướng, giặt đồ, quát lau, ủi quần áo, lo cho con nhỏ... Họ phải chịu đựng cái nóng bức, bụi bặm, luôn thiếu người đàn ông để chở và bửa củi, bơm nước, mổ gà. Trời nóng bức đến nghẹt thở, dù rằng còn đang ở đầu mùa xuân, hàn thử biểu trong mát lên đến 30 độ Trong nhà bếp nhiệt độ lên đến 47.
Quần áo mặc nhiều lớp, may bó chặt, trước đây để sử dụng ở Tây Tây Lan, nơi mà nhà luôn mát lạnh. Mary Carson đến thăm căn nhà của cô em dâu mình với mục đích quan sát coi có được vệ sinh không. Chiếc áo dài vải trúc bâu mà Fiona mặc bó sát lên đến cổ, đường viền phía sau phết dưới đất. Trong khi Mary Carson thì mặc theo mốt mới. Chiếc áo xoa màu kem chỉ dài đến bắp chân, tay rộng, thân không bó và cổ hở thấp.
- Fiona ơi, cô thật là cũ rích - Mary Carson nhận xét.
Bà ta liếc nhìn phòng khách, các bức tường được sơn lại màu kem; sàn nhà lót bằng những tấm thảm Ba Tư, đồ đạc bày biện đắt tiền và tinh tế, khiến cho bà phải chú ý.
- Tôi không có thì giờ để có thể làm khác hơn - Fiona trả lời bằng giọng khô khan.
- Cô có nhiều thời giờ hơn ở đây, vì đàn ông thường vắng mặt. Hãy cắt ngắn chiếc áo lại, vất đi những cái váy và cả coocxê, nếu không cô sẽ chết ngạt thở khi mùa hè đến. Nhiệt độ có thể tăng lên khoảng một chục độ, cô có biết không? Mắt bà Mary dừng lại bức chân dung của một phụ nữ đẹp, tóc vàng, ăn mặc mốt của Nữ hoàng Engénie - Ai đây? - Bà vừa hỏi vừa đưa tay chỉ về bức vẽ.
- Bà ngoại tôi.
- Ồ, thật à? Còn bàn ghế, các tấm thảm này ở đâu ra?
- Của bà ngoại tôi.
- Ồ, thật à? Fiona thân mến của tôi, hình như cô vỡ mộng?
Fiona vẫn bình tĩnh, hai môi mím lại.
- Tôi không nghĩ như vậy. Tôi đã lấy được một người chồng đôn hậu, chị cũng cần biết điều đó.
- Nhưng không có một đồng xụ Họ riêng của em là gì?
- Armstrong.
- Ồ, thật à? Có phải là bà con phía Roderick Armstrong?
- Roderick là tên của anh cả tôi.
Mary Carson đứng dậy, tay chạm mạnh vào chiếc nón rộng vành để xua đuổi những con ruồi không biết kiêng nể bất cứ ai.
- Quả thật, cô sinh ra trong một gia đình khá hơn dòng họ Cleary, tôi phải nhìn nhận điều này. Cô yêu Pađy đến mức nào mà bỏ tất cả như thế?
- Điều đó chỉ liên quan đến tôi - giọng Fiona nói đều đều - Nói không liên quan đến chị. Tôi tránh nói về chồng tôi, kẻ cả với chị ruột anh ấy.
Nếp nhăn hai bên mũi Mary Carson càng rõ nét, bà trố mắt.
- Cô dễ bị tự ái quá.
Sau này Mary Carson không đến nhà em dâu nữa nhưng bà Smith, quản gia của Mary Carson lại đến thường xuyên và khuyên Fiona nên đổi thay cách ăn mặc.
Trước khi chia tay, Mary Carson nói:
- Trong phòng tôi có một chiếc máy may ít khi sử dụng. Tôi sẽ bảo hai người khiêng qua cho cộ Khi nào tôi cần, tôi đến đây sử dụng (Mắt của bà nhìn về phía bé Hal đang nằm chơi trên sàn nhà). Tôi rất thích nghe tiếng trẻ con líu lo, bà Cleary ạ.
Meggie sống khá cô độc. Bọn con trai chỉ còn lại có Stuart ở nhà. Jack và Hughie theo cha để học nghề chăn cừu, Stuart không có nhiều thì giờ ở bên cạnh Meggie như những anh trai khác. Cậu ta sống với thế giới riêng vốn không ồn ào, thích ngồi hàng giờ quan sát đàn kiến nối đuôi nhau hơn là leo trèo trên cây, trò chơi mà Meggie rất thích, nhất là trèo trên những cây bạch đàn úc châu đẹp tuyệt.
Tuy nhiên Meggie và Stuart không phải lúc nào cũng có thì giờ dư dả để nhìn kiến và leo cây, cả hai phải làm việc rất dữ: bửa củi và khiêng củi, đào hố rác, trồng rau trong vườn, chăm sóc gà vịt và heo. Cả hai cũng được học được biết cách giết rắn mặc dù vẫn rất sợ chúng.
Mấy năm gần đây mưa rất ít, suối cạn nước, những bồn chứa chỉ còn phân nửa. Cỏ còn đẹp nhưng không thể so sánh với lúc hoa lá xanh tươi.
- Có lẽ tình hình sẽ tệ hơn - Mary Carson nói với giọng chán nản.
Những người dân ở đây phải trải qua nạn lụt trước khi đối đầu với nạn hạn hán dữ dội. Vào giữa tháng giêng, cái gió mùa hướng Bắc - Tây thổi qua vùng này. Những ngọn gió lớn đổi hướng bất thường mặc sức hoành hành. Có khi chỉ những điểm xa nhất phía Bắc của lục địa chịu những trận mưa hè như thác; có khi, những trận mưa ấy tràn xuống phía dưới, làm cho mùa hè trở nên ẩm ướt. Năm đó, vào tháng giêng, mây đen nghịt bị những cơn gió xé toạc ra từng mảnh. Mưa bắt đầu đổ xuống, hồng thủy, trời đất gầm rú liên tục.
- Gió mùa tới. Blue Williams, người chở mướn qua nhiều vùng ghé lại Droghela, vừa vấn thuốc hút vừa nói - Sông Cooper, sông Barcoo, và sông Diamantia phình to ra, còn sông Overflow vỡ bờ. Cả vùng bên trong Queensland sẽ ngập dưới 60 centimet nước; phải rất khó khăn nếu muốn tìm ra một nơi cao để bảo vệ đàn cừu.
Bỗng chốc mưa đến. Pađy và các con trai làm việc thật vất vả để đưa các đàn cừu rời khỏi những vòng rào phía dưới. Cha Ralph đến tiếp tay rất nhiệt tình. Ông thắng yên ngựa và đi cùng Frank, với những đàn chó săn giỏi nhất để di chuyển đàn súc vật về những khu đất rào kín gần rìa con sông Barwon. Trong khi đó Pađy và hai người làm công, mỗi người có một cậu con trai đi theo lại chạy về hướng khác.
Cha Ralph trông chẳng khác một nhà chăn nuôi sành sỏi. Ông cỡi con ngựa sắc hồng thuần chủng - quà tặng của bà Mary Carson - mặc quần da, chân mang giày bốt bóng loáng, thân người chắc nịch bó sát trong chiếc áo màu trắng tinh, tay áo sắn lên cao, cổ áo mở rộng để lộ ra phần ngực rám nắng. Còn Frank thì mặc quần dài bạc màu, ở phía dưới đầu gối được bó lại bằng những mảnh da cănguru, người anh mặc một chiếc áo ngắn sát nách bằng nỉ mỏng màu xám, khiến Frank trở nên nghèo nàn bên cạnh cha Ralph.
Quả thật là thế - Frank, nhếch mép nghĩ thầm - nhìn theo cái dáng người thẳng của cha Ralph trên lưng con ngựa cái nhanh nhẹn xuyên qua cây thông và hoàng dương bên kia con suối nhỏ. Con ngựa của cha Ralph lông đốm, một con vật tính khí dữ dằn, bướng bỉnh, luôn tỏ ra căm ghét đồng loại. Được kích động, bầy chó chạy tứ tung, sủa loạn lên và cắn lẫn nhau. Răng nanh của chúng nhe ra bắt buộc cha Ralph phải vung những đường roi để trấn áp. Không có gì là không thể làm được ở con người này. Ông biết cả huýt gió để ra lệnh đàn chó trở lại nhiệm vụ và sử dụng ngọn roi khéo léo hơn cả Frank.
Khi trời nhá nhem tối, cha Ralph và bầy chó, với sự tiếp sức không có hiệu quả mấy của Frank đã đưa được đàn cừu đến bãi đất thứ nhất, thường thì công việc ấy phải mất nhiều ngày. Linh mục vừa tháo yên ngựa ở một lùm cây gần bãi đất thứ hai, hào hứng cho rằng họ có thể lập lại thành tích đưa đàn cừu đến một bãi khác trước khi trận mưa ào tới. Mấy con chó nằm trên cỏ, lưỡi thòng ra, tìm cách ve vãn cha Ralph. Frank kéo ra từ trong túi trên lưng ngựa những miếng thịt cănguru bầy nhầy và quẳng cho nó. Chúng cắn nhau giành giật.
- Đồ súc vật! Frank nói lầm bầm. Chúng nó không như loài chó nhà. Đúng là những con chó rừng.
- Theo tôi nghĩ có lẽ chúng gần gũi với điều Chúa muốn hơn so với chó nuôi trong nhà. Cha Ralph nói lại nhẹ nhàng. Nhanh nhẹn, thông minh, hung hăng, phần nào thuần hóa. Tôi vẫn thích chúng hơn là chó nuôi làm bạn. Mèo cũng thế - Anh có nhận thấy, những con mèo lảng vảng xung quanh nhà? Hoang dại và hung dữ không thua những con beo; chúng không cho người đến gần. Nhưng chúng săn chuột tuyệt vời và không cần ai nuôi.
Cha Ralph lấy ra từ trong túi đặt trên lưng ngựa một miếng thịt cừu đông lạnh và một gói bánh mì, bợ Cắt một miếng thịt trao cho Frank, ông để bánh mì và bơ giữa hai người, trên một khúc cây đốn ngã. Ông cắn vào miếng thịt ngon lành. Cả hai cùng uống nước trong một túi da và vấn thuốc hút.
- Này Frank, hình như anh không vui?
Cha Ralph hỏi với một tiếng thở ra, tay vấn điếu thuốc thứ hai.
Frank ngồi cách linh mục khoảng một mét rưỡi; anh quay phắt đầu lại, nhìn cha Ralph với vẻ dò xét.
- Hạnh phúc là thế nào?
- Anh có thể tìm ra một thí dụ. Cha và các em của anh đều rất hạnh phúc, ít ra lúc này. Nhưng anh thì lại khác. Mẹ anh cũng thế và cả em gái Meggie của anh đều không thích úc châu?
- Tôi không thích vùng này. Tôi muốn đi Sydney; ở đó tôi hy vọng có lối thoát.
- Sydneỵ Đó là một nơi dễ sa ngã - Cha Ralph cười nói.
- Tôi cóc cần! Ở đây tôi cũng lại bị kẹt cứng như ở Tây Tây Lan. Tôi muốn trốn khỏi ông ấy.
- Ông ấy?
Frank nói một cách đột ngột và từ chối nói thêm. Nằm ngửa, Frank ngước mắt nhìn lên tán cây.
- Anh bao nhiêu tuổi, Frank?
- Hai mươi hai.
- à, tức nhiên! Có lần nào anh xa gia đình chưa?
- Chưa.
- Anh có đi khiêu vũ lần nào chưa? Chắc đã có?
- Chưa.
- Thế thì ông ấy sẽ không giữ được anh lâu.
- Ông ta sẽ giữ tôi đến chết.
Cha Ralph ngáp dài và chuẩn bị ngủ.
- Chúc ngủ ngon - Ông nói trong miệng.
Hôm sau dù mây vần vũ nhưng trời vẫn chưa mưa và hai người đã giải tỏa được bãi chăn thứ hai.
Mưa bắt đầu đổ xuống và buổi chiều lúc Frank và linh mục phi ngựa đến chỗ cạn của đoạn suối gần nhà.
Nhưng khi qua bên kia bờ thì người và ngựa không thể lên cùng lúc vì dốc đứng và trơn trợt. Họ phải để ngựa lên trước, cả hai còn lại leo lên tuột xuống mấy lượt.
Nhờ thấy hai con ngựa không có chủ về nhà, Pađy đoán ra chuyện không hay của hai người. Ông đến bên bờ suối với dây thừng kéo cha Ralph và Frank lên.
Pađy mời cha vào nhà thay quần áo ấm nhưng cha cười lắc đầu từ chối.
- Mọi người đang chờ tôi ở Nhà Lớn - Ông nói. Mary Carson nghe tiếng cha Ralph gọi cửa trước khi đám gia nhân nghe thấy. Ông đã đi vòng ra phía trước tòa nhà dự tính đi thẳng vào phòng.
- Cha không thể vào nhà trong tình trạng này, người lấm bê lấm bết - Bà Mary Carson đứng trong hiên nói với Ralph.
- Vậy xin bà đưa giúp tôi mấy cái khăn và chiếc vali.
Không chút ngượng nghịu, bà quan sát cha Ralph trong khi ông cởi áo, cởi giày bốt. Ông tựa vào cửa sổ phòng khách dùng khăn để lau bùn.
- Cha là người đàn ông đẹp nhất mà tôi được nhìn, Ralph ạ - Tại sao có lắm linh mục đẹp như thế. Phải chăng vì có dòng máu ái Nhĩ Lan. Tất nhiên, đó là một dân tộc đẹp, những người ái Nhĩ Lan. Có phải những đàn ông đẹp đi làm linh mục để thoát khỏi sự quyến rũ của chính họ. Tôi đánh cuộc với cha rằng tất cả thiếu nữ ở Gilly đều ao ước cha.
- Từ lâu tôi có thói quen không để ý đến các cô gái si tình - Ông trả lời vui vẻ - Bất cứ linh mục nào dưới 50 tuổi đều co thể là mục tiêu của một số các cô và một linh mục dưới 35 thì dứt khoát các cô phải mê rồi. Nhưng chỉ có các cô gái theo đạo Tin lành là muốn chinh phục tôi một cách công khai.
- Cha không trả lời thẳng câu hỏi của tôi.
Mary Carson đứng thẳng người lên, đến sát cha Ralph đặt lòng bàn tay của mình lên ngực linh mục và giữ nguyên ở đó.
- Sự đòi hỏi của phụ nữ có làm cha ray rứt không, cha Ralph?
- Không, ông trả lời, đầu ông ngả về phía sau trong một động tác bày tỏ sự khinh miệt.
- Với đàn ông thì có lẽ?
- Còn tệ hơn phụ nữ. Không, không có đòi hỏi nào giày vò tôi. - Hay cha chỉ yêu chính cha mà thôi?
- Càng ít hơn bất cứ ai.
- Thật lý thú. Bà đi vòng quanh cha Ralph và quan sát linh mục. Ralph, Hồng Y De Bricassart - giọng Mary Carson mỉa mai.
Đầu tháng hai, cuộc sống thay đổi đột ngột với Meggie và Stuart. Cả hai được gởi đi học nội trú ở tu viện Gillabone vì không có trường nào gần hơn. Pađy cho biết khi tới tuổi, Hal sẽ học theo phương pháp hàm thụ của trường trung học Blacfriard ở Sydneỵ Còn bây giờ vì Meggie và Stuart quen học với thầy nên phải gởi đi học ở tu viện Saint Croix, tiền nội trú được bà Mary Carson chi rộng rãi. Còn Jack và Hughie sẽ không đi học nữa, Drogheda cần chúng và cả hai đều thích sống với đất đai.
Meggie và Stuart trải qua một cuộc sống êm đềm ở tu viện Saint Croix, rất khác so với những ngày chúng học Trường Thánh Tâm ở Wahinẹ Cha Ralph đã tế nhị cho các nữ tu biết ông bảo trợ cho hai đứa bé và khéo léo nhắc đến người cô của chúng là một phụ nữ giàu nhất ở New South Wales. Do đó mà sự rụt rè của Meggie được xem như một đức tính tốt và cuộc sống tách rời, cô độc của Stuart, thói quen nhìn vào khoảng không, giờ này sang giờ khác, lại được coi là thánh thiện.
Cha Ralph thường đến thăm Meggie và Stuart, đón cả hai về nhà xứ đều đặn đến nỗi ông quyết định cho sơn căn phòng được dành cho Meggie - bằng màu xanh dịu - Ông cho treo màn mới và thay khăn trải giường. Stuart thì tiếp tục ngủ trong căn phòng trước đây sơn màu kem bây giờ ngả sang màu nâu. Cha Ralph không hề tỏ ra quan tâm Stuart ở đây có vui không. Sự hiện diện của Stuart là phụ thuộc, cậu ta được mời về chỉ do sự tế nhị bắt buộc mà thôi.
Cha Ralph cũng không biết tại sao ông lại mến Meggie đến thế, và trong thâm tâm ông cũng không khi nào tự hỏi về điều này. Đầu tiên ông cảm thấy thương hại cô bé khi nhìn thấy lần đầu ở sân ga đầy bụi, Meggie đứng tách riêng một mình, có lẽ vì là con gái duy nhất trong gia đình. Ông kết luận như vậy. Nhưng ngược lại, linh mục không lưu tâm đến Frank cũng đứng một mình ngoài vòng gia đình; ông không hề thương hại cậu thanh niên ấy. Còn Meggiẻ Cô bé làm cho linh mục xúc động sâu xa mặc dù ông không biết tại sao. Màu tóc của Meggie khiến cho ông bị mê hoặc. Màu và hình dáng của đôi mắt làm nhớ đến đôi mắt rất đẹp của Fiona, nhưng dịu dàng gấp bội và đáng yêu hơn. Và tính tình của Meggie theo ông đó là cái tính lý tưởng của người phụ nữ: thụ động, nhưng kiên quyết trước mọi thử thách. Không có sự nổi loạn ở Meggie, trái lại, cả đời Meggie sẽ khuất phục, chấp nhận sống bên trong những ranh giới của số phận người phụ nữ.
Tuy nhiên, không phải chỉ có những điều đó làm Ralph quý mến Meggie; mà trong sâu xa, tình cảm đối với cô bé này xuất phát từ một pha trộn của thời gian, nơi chốn và cá tính. Không ai coi cô bé ra gì, điều đó gây nên một khoảng trống trong cuộc đời của Meggie, cái khoảng trống ấy ông có thể làm đầy và chắc chắn sẽ nhận được tình thương của cô bé. Meggie lại là một đứa trẻ con và như thế không gây nên lời ra tiếng vào nào cho lối sống và tiếng tăm của linh mục. Cô bé rất đẹp và ông say mê với cái đẹp ấy. Điều đó khó có thể chấp nhận, cô bé đã lấp cai khoảng trống của cuộc đời ông, cái khoảng trống mà Chúa của ông không thể lấp được, vì rằng cô bé có một sức hấp dẫn và một nhân cách rõ nét. Để không gây sự khó chịu cho gia đình Cleary khi ông thường xuyên tặng quà cho Meggie, ông đã dành tất cả thời gian mà ông có thể có được - thời giờ và cả tâm trí - để trang hoàng căn phòng của Meggie ở trong nhà xứ, với mục đích được thấy cô bé vui, hơn là để có một nơi để đặt viên ngọc quí Meggie.
Chương 7
Frank không về nhà từ mười lăm ngày naỵ Anh ta theo người chăn nuôi già tên Peter cái thùng, với đàn chó, hai con ngựa, một chiếc xe nhỏ do một con ngựa tồi kéo dùng để chở đồ dự trữ, họ đến những vùng bãi chăn cừu xa nhất về hướng Tây đưa cừu về. Công việc mất thời giờ, chậm chạp và nhạt nhẽo không như việc tập hợp cừu vội vã vào thời điểm sắp sửa có lụt. Nơi cắt lông cừu chỉ có thể nhận cùng một lúc mười ngàn con vì vậy khâu tuyển lựa rất cần thiết.
Khi Frank bước vào nhà bếp, anh gặp ngay mẹ đứng bên bể rửa chén dĩa, vẫn lúi húi vào thứ công việc không bao giờ kết thúc: gọt khoai.
- Mẹ Ơi, con về rồi! Anh vui mừng báo tin.
Bà quay lại Frank, ngạc nhiên nhìn lên; hai tuần lễ xa nhà cái nhìn của anh sắc hơn.
- Trời ơi... ! Frank lầm thầm trong miệng.
Trong đôi mắt của Fiona không thấy có niềm vui gặp lại con, gương mặt đỏ lên xấu hổ, hai tay bà đặt lên tạp dề độn tròn như để che giấu điều mà áo quần không thể che được.
- Con dê già ấy thật gớm ghiếc! Frank kêu lên, tay chân run rẩy.
- Frank! Mẹ không cho phép con được nói như thế. Con lớn rồi. Con phải hiểu biết. Chính con cũng chào đời bằng kết quả như thế. Điều này không có gì xấu xa; khi con chửi cha con, con đã chửi cả mẹ rồi đấy!
- Ông ta không có quyền! Đáng ra ông ta phải để mẹ yên. Frank chống chế lại, miệng rít lên sùi bọt mép.
- Không xấu xa đâu, Frank - bà lặp lại bằng giọng mỏi mệt và nhìn Frank bằng đôi mắt sáng trong - không xấu xa đâu, Frank, không xấu xa hơn hành động để cho một đứa trẻ sinh ra đời.
Lần này thì Frank đỏ mặt lên. Anh không dám nhìn thẳng mẹ; anh nhìn đi nơi khác rồ về phòng chung với Bob, Jack và Hughiẹ Mấy bức tường trống trơn, những chiếc giường chật như trêu chọc Frank, bêu riếu sự có mặt của anh; đây là nơk ngủ buồn tẻ của Frank, không có người nào khác để gây hơi ấm và cũng chẳng có chút gì gọi là thiêng liêng. Và lúc ấy trong anh hiện lên gương mặt của mẹ, nét đẹp mệt mỏi, với quầng sáng của mái tóc vàng óng ánh tỏa ra như một vầng hào quang, sung sướng vì cảm nhận trong bụng mình cái kết quả đã cùng con dê già lông lá cấu tạo giữa cái nóng oi bức của mùa hè.
Anh ta không thể xua đuổi nỗi ám ảnh ấy, không thể tách rời mẹ với những suy nghĩ đen tối đang vây hãm mình. Rồi những đòi hỏi tự nhiên của lứa tuổi và sự sung mãn của người đàn ông đã dậy lên ở anh ra. Bình thường, Frank xua đuổi được những ý tưởng ấy khỏi đầu óc nhưng khi mẹ anh ta phô bày ra trước anh sự hiển nhiên của chuyện dâm dục, và cái hành vi bí ẩn đã thực hiện với con thú già đa dâm ấy thì... Làm sao Frank có thể chấp nhận được, chịu đựng được? Frank mong muốn nghĩ về mẹ như một người hết sức thánh thiện, trong trắng như Đức Mẹ đồng trinh, một người phụ nữ vượt lên trên hành động tầm thường mặc dù tất cả phụ nữ, ở khắp thế gian, đều phạm tội ấy. Cảm thấy mẹ đánh mất cái ý tưởng đẹp mà anh vốn trân trọng, Frank phát điên lên. Để đầu óc được bình tỉnh, Frank cần phải tưởng tượng rằng mẹ mình nằm kế bên lão già ghê tởm ấy trong sự trong trắng hoàn toàn, chỉ để ngủ, và trong đêm cả hai không quay mặt lại nhau, cũng không hề chạm nhau - Trời ơi!
Tiếng lanh lảnh của kim loại khiến Frank nhìn xuống; anh nhận ra là mình đang bóp vẹo cái thanh sắt giường.
- Tiếc quá, mày không phải là cha tao! Anh nói với thanh sắt.
- Frank, Fiona đứng ở cửa phòng gọi Frank. Anh ngước nhìn mẹ bằng đôi mắt đen, sáng quắc, nhưng ướt đẫm như hòn than dưới mưa.
- Trước sau gì con cũng giết ông ta - giọng Frank gầm gừ.
- Và rồi con sẽ giết luôn mẹ chứ gì! Fiona vừa nói vừa đến ngồi bên Frank.
- Không, con sẽ giải thoát mẹ! Frank đáp lại, giọng sôi nổi, lòng nung nấu bở một hy vọng điên rồ.
- Frank à, mẹ sẽ không bao giờ đưỢc tự dọ Hơn nữa mẹ cũng không muốn được tự dọ Mẹ muốn tìm hiểu sự mù quáng của con từ đâu mà ra, vậy mà mẹ không thể hiểu được. Nhưng có điều chắc là không phải từ mẹ, mà cũng không từ cha con. Mẹ biết con không có hạnh phúc, nhưng tại sao con trút tất cả lên mẹ và chả (Bà nhìn hai tay mình, rồi nhìn lên Frank). Đáng lý mẹ không nói điều này với con, nhưng mẹ nghĩ cần phải nói. Frank à, đã đến lúc con cần có người bạn gái, để sau này xây dựng một mái ấm gia đình. Drogheda không thiếu chỗ đâu; về chuyện này mẹ không âu lo cho các em con; các em con bản tính không giống con. Nhưng còn con, con cần một người vợ. Frank à. Khi có vợ, con không có thời giờ để nghĩ đến mẹ nữa.
Frank ngồi quay lưng lại mẹ, anh không muốn phải nhìn thẳng vào mẹ. Hơn năm phút đã trôi qua, bà vẫn ngồi trên giường với hy vọng Frank sẽ nói điều gì đó, nhưng rồi bà thở dài, đứng lên và rời khỏi phòng.
Chương 8
Sau khi các thợ cắt lông cừu đã đi, lúc mà cả vùng trở lại sự yên tĩnh bình thường của mùa đông thì ngày lễ hàng năm của Gillanbone lại đến. Cuộc vui kéo dài hai ngày, Fiona cảm thấy không khỏe lắm nên không tham dự, còn Pađy phải lái xe Rolls Royce đưa Mary Carson lên tỉnh.
Mọi người đều dự các cuộc vui. Mấy đứa con trai của Pađy, trước khi được đi theo Peter cái thùng, đều bị hăm dọa đủ điều nếu ai đó gặp chúng phá phách. Riêng Frank đi thật sớm, một mình trên chiếc ô tô Ford. Tất cả người lớn đều ở lại đến ngày mai để dự cuộc đua ngựa. Bà Mary Carson, vì những lý do riêng, đã từ chối lời mời của cha Ralph đưa bà đến nghỉ đêm ở nhà xứ, nhưng ngược lại nằng nặc bảo Pađy và Frank nhận lời cha Ralph.
Sau khi đưa chị đến khách sạn Hoàng Gia, Pađy xuống quầy rượu và gặp Frank, tay cầm một cốc bia.
- Ba đãi con sau - Pađy nói nhỏ nhẹ với con - Ba phải đưa cô Mary đi ăn cơm trưa ngoài trời trước khi đi xem đua ngựa và ba cần được thoải mái trước khi phải chịu đựng một cuộc thử thách với cô Mary.
Thói quen và sự sợ sệt khó vượt qua hơn là ta vẫn thường nghĩ khi định thoát ra khỏi sự chi phối của nó - Frank nói với mình. Anh ta tự thấy không thể để hành động theo ý mình, không thể trút cả cốc bia vào mặt cha, nhất là trước mặt đông đảo những khách tấp nập quanh quầy. Anh đành nuốt ực phần bia còn lại, mỉm cười và lườm lườm nói:
- Rất tiếc ba; con có hẹn với mấy thằng bạn ở chỗ lễ.
Meggie với hai bím tóc thòng xuống quá vai, mặc bộ đồng phục màu xanh nữ sinh nội trú trường Saint Croix, theo sau một bà xơ, đi băng qua bãi cỏ của tu viện để đến nhà xứ. Tại đây bà xơ giao Meggie cho bà quản gia của cha Ralph; bà này rất yêu thương Meggie.
- Tôi yêu con bé này vì mái tóc của nó ngọt ngào như rượu tiên - ba ta giải thích Ralph ngạc nhiên về sự say mê đó. Annie - bà quản gia - không ưa đám con gái và thường than phiền nhà xứ ở quá gần trường học.
- Thôi đừng giải thích lung tung bà Annie ạ. Tóc là thứ vô trị Bà không thể yêu một con người duy nhất chỉ vì màu tóc - Cha Ralph ghẹo bà.
Lúc đó Frank vào, cơn xúc động sau khi gặp cha mình tại quầy rượu, đầu óc rối loạn.
- Meggie đi với anh, anh đưa em đi hội chợ - vừa nói vừa đưa tay ra.
- Hay là cha sẽ đưa cả hai cùng đỉ Cha Ralph đề nghị. Hai bàn tay nhỏ bé của Meggie siết chặt hai tay của hai người đàn ông mà cô bé tôn kính. Meggie thấy mình ở bảy tầng mây.
Hội chợ tổ chức ở bên bờ sông Barson, bên cạnh trường đua ngựa.
Thái độ cha Ralph chăm sóc Meggie làm nhiều thiếu nữ ghen ghét, nhất là hoa khôi Carmichael muốn chinh phục chạ Đi ngang một vũng nước, trong khi hoa khôi Carmichael lúng túng với chiếc áo dài phết đất, chờ đợi một cử chỉ galăng của cha Ralph, thì linh mục lại quay sang bế Meggie một cách ân cần.
Ở đầu bãi đằng xa, một cái lều to sừng sững, trước lều một sàn gỗ, sau lều treo một tấm vải với nhiều hình vẽ dữ tợn như muốn hù dọa đám đông. Một đám người cầm máy phát âm, nói to với những người hiếu kì đang tụ tập lại.
- Thưa các ngài, đây là đoàn võ sĩ nổi tiếng Jimmy Sharman! Tám nhà vô địch ưu tú nhất thế giới, sẽ có một khoản tiền thưởng cho bất cứ ai trong quí ngài muốn thử thời vận.
Các nhà vô địch đứng trên sàn gỗ cười nói với nhau tự nhiên và rất tự tin, xem chuyện này chẳng có gì quan trọng.
- Mau lên các bạn, ai muốn đeo găng vào? Cái anh chàng cầm máy phát âm vẫn la hét. Ai muốn thử thời vận? Đeo găng vào và bạn sẽ lãnh ngay năm bảng! Xen lẫn tiếng hét của anh ta là những hồi trống thúc giục.
- Tôi, Frank kêu tọ Tôi đây!
Frank rút tay ra khỏi tay cha Ralph đang cố giữ anh lại. Đám đông cười rộ lên khi nhìn thấy vóc người thấp nhỏ của Frank. Bọn họ đẩy Frank lên sàn gỗ một cách vui vẻ. Nhưng anh chàng rao hàng thì lại nghiêm nghị khi một người trong những người của đoàn đưa tay thân thiện giúp Frank bước lên cầu thang đến chỗ của tám võ sĩ.
- Đừng có vội cười thưa quí ngài! Chàng thanh niên này không to nhưng anh là người đầu tiên tình nguyện lên đây! Trong một trận đấu, vóc dáng người không phải là vấn đề quyết định mà là những gì chứa trong bụng! Và đây là một cậu bé can đảm lên thử thời vận. Các anh còn chờ đợi gì, những chàng to khỏe, hả? Này, cậu trai hãy mang găng vào và lãnh năm bảng bằng cách đứng vững trước một trong các nhà vô địch của Jimmy Sharman cho đến giây phút cuối cùng!
Cha Ralph không muốn Meggie chứng kiến cảnh Frank ăn đòn nên bế xốc cô bé lên và định quay ra. Meggie hét lên, cha Ralph càng đi ra xa, tiếng hét cô bé càng dữ dội. Người ta bắt đầu hướng mắt về họ. Uy tín không hề bị tai tiếng của cha Ralph trước đây có nguy cơ bị cảnh hưởng vì chuyện này.
- Nghe đây Meggie, cha không thể đưa con vào trong đó! Ba con sẽ lột da cha vì ông ấy làm như thế là có lý.
- Con muốn ở lại với Frank! Con muốn ở lại với Frank! Cô bé cứ hét lên, hai chân giẫy nẩy.
- Thật là rắc rối! linh mục bực dọc.
Đành phải chịu, không thể nào làm khác hơn, cha Ralph cho tay vào túi lấy ra vài đồng tiền và đến gần cửa lều, mắt đảo quanh sợ một trong số các anh của Meggie bắt gặp.
- Đây không phải là cuộc trình diễn dành cho con bé này. Người bán vé rõ ràng khó chịu.
Cha Ralph đưa mắt lên nhìn trời.
- Nếu anh có cách nào đó đưa cô bé rời xa nơi đây mà không gây ồn ào để cảnh sát có thể bắt chúng ta về cái tội hành hung trẻ con, thì tôi sẵn sàng đưa nó đi ngaỵ Anh cô ấy chấp nhận lên đài so găng, cô ấy không muốn bỏ rơi anh mình.
Người bán vé nhún vai.
- Thôi thì tôi không tranh luận với cha làm gì. Xin mời vào nhưng cố làm sao cho nó đứng yên. Không, không, cha hãy giữ tiền lại, Jimmy Sharman không nhận tiền của cha đâu.
Đầu tiên Frank so găng với một võ sĩ hạng lông, anh hạ đo ván võ sĩ này. Ở tiếng cồng thứ ba Frank đề nghị so găng với một đấu thủ khác. Khi anh thi đấu đến trận thứ ba thì tiếng đồn đã lan ra nhanh như thuốc súng, trong lều chật ních người xem, không còn một chỗ trống.
Đánh đấm là cách duy nhất mà Frank biết để trút hận thù và sự phiền muộn. Ngay lúc anh tung ra cú đánh hạ đối thủ, hình như anh nghe một tiếng nói xa xăm dội vào tai anh: Hãy giết ông ta! Hãy giết ông ta!
Sau đó người ta đưa ra đối đầu với Frank một võ sĩ vô địch đích thực, một võ sĩ hạng nhẹ được chỉ thị giữ một cự ly cách xa Frank để dò xem Frank có biết đấu quyền Anh không hay chỉ là liều lĩnh. Đôi mắt Jimmy Sharman sáng lên. Ông ta luôn đi tìm những nhà vô địch, vào các ngày hội ở vùng quê thường giúp cho ông phát hiện vài người. Người võ sĩ hạng nhẹ theo đúng chỉ đạo của ông, trong khi đó Frank, điên lên muốn giết đối thủ, lao thẳng vào cái bóng luôn nhảy qua nhảy lại không ngớt né tránh. Anh rút ra bài học, cứ mỗi lần đánh áp sát, là bị một trận mưa đòn, vì rằng Frank thuộc vào loại người kỳ lạ có thể suy nghĩ ngay giữa lúc hung tợn điên cuồng. Và Frank đã đứng vững đến phút cuối cùng, trước những cú đấm dạn dày kinh nghiệm của đối phương. Một con mắt của Frank sưng vù lên, một đường tét ở chân mày và một đường khác ở môi. Nhưng anh lãnh được hai mươi bảng và được những người có mặt thán phục.
- Con muốn chúng ta chờ Frank hay chúng ta đi ngay?
Cô bé dựa vào cha Ralph, đầy lòng cảm ơn đối với sự yên lặng và thông cảm mà linh mục đã dành cho.
- Cha đã phải tự hỏi tại sao con lại khiến trái tim vô nghĩa của cha chịu một thử thách gay go như thế - linh mục nói thầm (ông nghĩ rằng cô bé sẽ rất buồn và khổ mà nghe ông nói nhưng ông có nhu cầu phải bày tỏ các suy nghĩ của mình thành tiếng, đấy là trường hợp thường xảy ra ở những kẻ sống độc thân). Con không làm cho cha nhớ đến mẹ và cha cũng không có em, cha muốn biết yêu thuật nào ẩn núp trong con và trong gia đình tội nghiệp của con cũng thế... Mọi việc có quá khó khăn cho con không, hỡi cô bé Meggie của cha?
Frank bước ra khỏi lều, một miếng băng dính trên chân mày, tay chậm lên môi. Lần đầu tiên từ khi cha Ralph biết Frank, ông thấy anh ta có vẻ vui lên. Tưởng như Frank vừa trải qua một đêm yêu đương với một người phụ nữ - cha Ralph nghĩ thầm như thế.
Khi Pađy bước vào phòng khách của nhà xứ để tìm Frank thì Meggie và cha Ralph đang đứng quanh ngọn lửa, thoải mái như trải qua một ngày vui, tuyệt vời. Điều đó khiến cho Pađy bực bội. Không có vợ bên cạnh, Pađy cảm thấy thiếu vô cùng. Đối với chị Mary Carson, Pađy vẫn giữ sự ác cảm không khác gì thời ông còn là một cậu bé ở ái Nhĩ Lan. Đúng lúc đó ông chú ý đến cái băng dính trên chân mày của Frank và gương mặt sưng phù; một cái cớ từ trên môi rơi xuống để cho ông trút ra bao nhiêu thứ bực bội.
- Với cái mặt thế này thì làm sao mày dám về nhìn mặt mẹ mầy! ông rầy tọ Chỉ cần tao buông lơi một chút là mầy lại sẵn sàng vồ lấy thằng nào đầu tiên lườm mày.
Sửng sốt, cha Ralph bật ngồi dậy và nói vài tiếng để xoa dịu Pađy, nhưng Frank đã phản ứng trước.
- Con đã kiếm tiền bằng cách này đây - Frank nói rất khẽ, tay chỉ cái băng dính - Hai mươi bảng trong vài phút lao động, hơn cả số tiền cô Mary trả cho chúng ta, ba và con, trong một tháng! Con đã đánh ngã ba võ sĩ giỏi và đứng vững trước một nhà vô địch hạng nhẹ trong lều của Jimmy Sharman trưa này. Con đã lãnh 20 bảng! Điều này nó không dính dấp đến những gì ba thường nghĩ về con. Tất cả mọi người chứng kiến trận đấu đều nể nang con.
- Thắng vài thằng khốn khổ mệt mỏi và bầm dập vì bị đấm, chỉ xuất hiện để lòe thiên hạ trong các ngày hội ở nhà quê thế mà mày lại phách lối. Phải biết cư xử như một người đã trưởng thành, Frank. Tao biết có thể mày đã không thể cao hơn nhưng hãy vì mẹ mày, để cái đầu của mày lớn ra!
Mặt Frank tái nhợt đi! Như những miếng xương trắng phếu dưới mặt trời. Với anh, đây là sự sỉ nhục kinh khủng nhất từ trước tới naỵ Hơi thở của Frank nghe rít lên nhưng vẫn cố giữ hai tay ở yên hai bên sườn hông.
- Họ không phải là những tên khốn khổ bị bầm dập bởi những cú đấm, thưa bạ Ba đã nghe danh Jimmy Sharman nhiều không thua con và chính hắn ta nói với con rằng con sinh ra là một võ sĩ và trước mặt con là một tương lai sáng. Hắn muốn mướn con vào đoàn và rèn luyện, và sẽ trả lương cho con! Có thể con không còn lớn nữa nhưng con đã đủ lớn để dạy cho bất cứ ai một bài học... Lời nói ấy có giá trị cho cả ba nữa, con dê già thối tha!
Những tiếng cuối cùng hạ thấp giọng vẫn lọt vào tai của Pađỵ Mặt ông tái nhợt không thua mặt con khi ông biết Frank ám chỉ mình.
- Sao mày dám nói thế?
- Ba không là cái gì khác hơn. Ba đáng ghê tởm. Còn tồi tệ hơn cừu đực động đực! Tại sao ba không để mẹ con yên? Ba không thể tự kìm chế việc dùng mẹ con để tìm khoái lạc hả?
- Đừng, đừng, đừng! Meggie hét to lên. Mấy ngón tay của cha Ralph cắm mạnh vào hai vai Meggie như móng chim mồi để cố giữ cô bé sát vào mình. Nước mắt ràn rụa trên mặt, Meggie cố vùng vẫy hết sức mình nhưng vẫn không thể thoát ra....
- Đừng ba, đừng! Frank ơi, em van anh! Em van anh! Cô bé la lên giọng hốt hoảng.
Nhưng chỉ có cha Ralph là nghe cô bé. Frank và Pađy xáp lại đối diện nhau. Lòng căm hờn và sự e sợ đều bị lột trần. Con đê trước kia ngăn chặn hai người - tình yêu cả hai dành cho Fiona - đã bị vỡ, giờ đây sự đối đầu ngấm ngầm đã bộc lộ công khai.
- Tao là chồng. Và Chúa đã giáng phúc cho cuộc kết hợp giữa hai vợ chồng tao bằng cách mang lại cho hai vợ chồng tao nhiều con cái, Pađy nói với giọng bình tĩnh hơn, cố gắng tự chủ.
- Ba không xứng đáng hơn một con chó già dơ dáy chạy theo sau bất cứ con chó cái nào để tìm cách nhảy đực!
- Còn mày, mày không hơn gì con chó già dơ dáy đã đẻ ra mày mà tao không hề biết đó là con chó nào! Pady hét lên. Rất may, nhờ ơn Chúa, tao không có dính dấp gì vào chuyện ấy. Trời ơi, tại sao tôi đã nói như thế...
Pađy chợt im bặt; sự điên tiết của ông tan biến nhanh như gió. Ông ta muốn ngã quỵ xuống, co rúm lại, hai tay đưa lên bụm miệng, tưởng như ông muốn rứt cái lưỡi đã thốt ra điều không bao giờ có quyền thốt ra.
- Tôi không muốn nói điều đó, Pađy than khóc - Tôi không muốn nói điều đó!
Ngay lúc những lời ấy thoát khỏi miệng Pađy, cha Ralph buông Meggie ra và chạy ngay tới Frank. Ông bẻ vặn cánh tay Frank ra sau lưng, cánh tay còn lại ông kẹp cổ anh tạ Ông rất to khỏe và cái khóa ấy giữ chặt Frank; Frank vùng vẫy để thoát ra nhưng rồi đột ngột sự chống trả của anh tan biến và anh lắc đầu ra dấu khuất phục - Meggie quỵ xuống sàn nhà, quỳ gối và khóc, mắt hết nhìn anh rồi nhìn cha với sự van xin bất lực. Cô bé không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng biết rằng sau chuyện này thì mình sẽ không còn giữ đủ cả hai.
- Đừng chối, thật sự Ông muốn nói ra điều ấy. Đáng lý tôi đã biết điều đó. Cha hãy buông tôi ra. Tôi không đụng tới ông ta đâu. Cầu xin Chúa giúp đỡ tôi.
- Cầu xin Chúa giúp đỡ các người? Cầu Chúa khiến cả hai mục xương dưới địa ngục! Nếu các người làm chấn thương tâm thần con bé này, tôi sẽ giết các người. - Cha Ralph lớn tiếng, người duy nhất bây giờ nổi giận - Các người có biết rằng tôi đã giữ con bé ở lại đây là để ngăn cản cả hai cấu xé nhau chớ đâu phải để nghe những điều tồi tệ ấy. Đáng lý tôi cứ để hai người tha hồ giết nhau, đồ ích kỷ, ngu đần và khốn nạn.
- Thôi được rồi, tôi đi đây - Frank nói bằng một giọng xa lạ, trống rỗng. - Tôi sẽ sung vào đoàn của Jimmy Sharman và vĩnh viễn tôi sẽ không trở lại đây.
- Con phải trở lại đây! Pađy nói lớn - Ba sẽ ăn nói sao đây với mẹ con? Mẹ con yêu con hơn tất cả những người khác cộng lại. Bà ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho ba.
- Ông cứ nói là tôi đã sung vào đội Jimmy Sharman vì tôi muốn trở thành một người có tên tuổi. Đó là sự thật.
- Điều mà ba đã nói... không đúng sự thật đâu Frank.
Đôi mắt đen, đôi mắt xa lạ của Frank ném một tia nhìn khinh miệt. Chính đó là đôi mắt gây ngạc nhiên cho cha Ralph ở lần đầu ông gặp chàng thanh niên. Tại sao Fiona thì mắt nâu còn Pađy mắt xanh lại đẻ ra đứa con trai mắt đen? Cha Ralph biết định luật di truyền Medel, do đó bản thân ông đã rút ra kết luận.
Frank lấy áo măng tô và nón.
- Trời ơi, đúng như thế! Tôi vẫn nghi ngờ điều ấy. Tôi vẫn nhớ hình ảnh mẹ tôi ngồi chơi đàn Claxeven trong một phòng mà ông không làm sao có được! Tôi vẫn linh cảm là ông không hề có mặt ở đó, ông đã đến với mẹ tôi sau tôi. Và khi nhớ lại suốt bao năm tháng tôi thù ghét ông vì ông hành hạ mẹ tôi. Chính tại tôi!
- Không tại ai hết, Frank ạ, không do ai hết. - Cha Ralph cố xoa dịu Frank - Con không hiểu hết những con đường bí ẩn của chúa, con phải nhìn các sự việc theo cách đó.
Frank rút tay ra khỏi bàn tay cha Ralph đang nắm chặt anh, rồi đi ra cửa bằng những bước nhẹ nhàng, êm ả - Không thế chối cãi anh ta sinh ra đã là võ sĩ - Cha Ralph nghĩ thầm.
- Những con đường bí ẩn của Chúa! chàng thanh niên mỉa mai, giọng nói vang lại từ ngoài cửa - Cha chỉ là một sinh vật khi cha đóng vai linh mục, thưa cha De Bricassart! Riêng tôi, tôi nói Chúa đã đến cứu giúp cha, cứu giúp riêng cha ma thôi, vì rằng cha là người duy nhất ở đây không mảy may biết một chút nào về con người thật ấy.
Pađy ngồi sụp xuống trên chiếc ghế bành, mặt xám xịt, nhớn nhác, mắt nhìn Meggie trân trân, trong khi đó Meggie ngồi trước lò sưởi khóc sướt mướt. Pađy định đứng dậy ôm con gái mình nhưng cha Ralph chăn lại.
- Hãy để con bé yên. Ông gây cho nó bao nhiêu đớn đau như thế đủ rồi. Ông có thể tìm rượu whisky trong tủ và uống vài hớp đi. Tôi đưa con bé vào phòng cho nó nghỉ, nhưng tôi sẽ trở lại nói chuyện với ông. Vậy ông đừng rời khỏi đây. Ông nghe tôi nói chứ?
- Tôi chờ cha, thưa chạ Cha đặt Meggie lên giường dùm tôi.
Trên gác, trong căn phòng sơn màu xanh nhạt xinh xắn, linh mục cởi chiếc áo ngoài và bộ đồ bó sát bên trong của Meggie và đặt cô bé ngồi trên giường, để cởi giày vớ. Chiếc áo ngủ đã được bà quản gia Annie để sẵn trên gối! Linh mục tròng áo qua cổ và kéo phủ xuống thân người Meggiẹ Sau đó, mới cở quần lót cho Meggiẹ Trong thời gian này, cha Ralph kể đủ thứ chuyện đâu đâu cho cô bé nghe, nào là chuyện tầm phào về những cái nút khó cởi, những sợi dây giày khó bảo, những dải rubăng tháo mãi không ra. Đôi mắt cô bé còn đầy nét kinh hoàng thơ ngây không giải thích được, tất cả rối ren và đau đớn vượt sức chịu đựng của tuổi cô bé. Meggie như rơi vào khoảng không - Bây giờ hãy nằm dài ra, con yêu quí của cha và ráng nhắm mắt ngủ. Cha sẽ trở lại ngay để thăm con. Đừng lo sợ gì. Chúng ta sẽ trở lại tất cả những chuyện này vào ngày mai.
Pađy hỏi cha Ralph khi linh mục trở lại phòng khách:
- Con bé đã bình yên chưa?
Linh mục đưa tay lấy chai rượu whisky trên tủ và rót nửa ly.
- Thành thật mà nói, tôi chưa biết ra sao. Có Chúa chứng giám, tôi muốn hiểu sự bất hạnh tệ hại nhất của người Ailen là từ đâu: rượu hay cái tính hay nổi giận bất thường... Cái gì đã xúi giục ông nói lên điều ấy? Thôi, giải thích cũng bằng thừa. Cái tính khí bất thường! Tất nhiên là thế. Tôi đã biết ngay Frank không phải là con của ông khi lần đầu tôi gặp nó.
- Không có gì thoát khỏi cặp mắt của cha.
- Không phải thế. Nhưng chỉ cần có chút óc quan sát trung bình thôi cũng đủ phát hiện những chuyện buồn phiền hay đau khổ mà một số con chiên của Chúa phải gánh chịu.
- Phải chăng cha có được nhiều người ở Gilly yêu mến?
- Có lẽ tôi được như thế nhờ ở gương mặt và vóc dáng - linh mục Ralph trả lời một cách chua chát không thể giữ giọng mình tự nhiên như ý muốn.
- Cha nghĩ như thế à? ý kiến con lại khác, thưa chạ Chúng con yêu mến cha vì cha là một đấng chăn chiên tốt.
đù sao thì tôi dính líu quá sâu vào những rắc rối của gia đình ông - Cha Ralph nói hơi lúng túng - Ông nên rút ra hết đi những gì đè nặng trong lòng, ông bạn ạ.
Pađy vẫn nhìn chăm chăm ngọn lửa đang cháy rực. Lúc nãy khi cha Ralph bế Meggie lên lầu và đặt cô bé lên giường ông đã ném vào lò sưởi thêm nhiều khúc củi, lòng bị giày xéo bởi sự ăn năn và một đòi hỏi dữ dội muốn làm một điều gì đó. Cái ly rượu như nhảy múa trên tay ông, bởi ông chưa qua cơn xúc động và run bật lên từng chặp. Cha Ralph đứng lên, lấy chai rượu và rót đầy vào ly của Pađỵ Sau khi nốc một hơi, Pađy thở dài và lau những giọt nước mắt trên má lúc nào ông không hay.
- Con không hề biết cha của Frank là ai. Chuyện xảy ra trước khi con gặp Fionạ Gia đình của vợ con là một gia đình danh giá ở Tây Tây Lan. Cha của Fiona có một điền trang rộng lớn trồng lúa mì và nuôi cừu, ở gần Ashburton trên Nam Đảo. Tiền nhiều không kể xiết. Fiona là con gái duy nhất của ông ấy. Theo như con biết, ông ấy đã lo trước cho Fiona đủ cả, nào là sang Anh, ra mắt ở triều đình, và lấy một người chồng xứng đáng. Dĩ nhiên Fiona không động một móng tay vào các công việc trong nhà. Cô ta có nhiều người phục vu... Gia đình sống như vua chúa.
Con làm công ở một hãng sữa, đôi khi cũng thấy Fiona từ xạ Cô ấy đi dạo với một thằng bé khoảng 18 tháng. Rồi một hôm, lão James Armstrong tìm con. Ông cho con biết là con gái của ông đã làm nhục gia đình định đưa cô ấy đi đến một nơi xa thì bà ngoại của Fiona chống lại một cách ồn ào đến mức gia đình buộc lòng vẫn để Fiona ở đó mặc dù có vẻ bất tiện. Nhưng sau này bà ngoại sắp qua đời, không còn ai ngăn cản việc đuổi Fiona và đứa con trai ra khỏi nhà. Con còn độc thân và James bảo con nếu chịu lấy con gái của ông làm vợ và cam đoan chắc chắn với ông ta là sẽ đưa con gái đi khỏi Nam Đảo thì ông sẽ chịu mọi tổn phí và biếu thêm một số tiền là 500 bảng.
Thưa cha, đó là cả một tài sản đối với con, hơn nữa con đã chán cái cảnh độc thân. Bao giờ con cũng nhút nhát, không làm được chuyện gì nên thân trong quan hệ với phái nữ. ý kiến ấy rất tốt đối với con và thẳng thắng mà nói, đứa bé không gây khó chút nào cho con. Bà ngoại của Fiona cuối cùng đoán ra được việc này và cho người đi tìm con. Lúc bấy giờ bà đã bệnh nặng. Bà là một người có uy quyền, tính tình rất khó chịu, nhưng con quả quyết với cha, đó là một người phụ nữ rất đáng kính trọng. Bà kể cho con nghe một chút về Fiona, nhưng vẫn không nói ai là cha của thằng bé. Phần con cũng thấy không cần thiết tìm hiểu xa hơn. Bà buộc con hứa với bà ấy sẽ đối xử tối với cháu gái của bà... Bà biết rằng Fiona sẽ rời khỏi nhà ngay khi bà nhắm mắt. Và chính bà đã đưa ra ý kiến với James nên tìm cho Fiona một người chồng. Con rất tội nghiệp cho bà cụ; bà rất yêu thương cháu gái của bà.
Cha có tin hay không nếu con kể cho cha biết rằng lần đầu tiên con đến gần Fiona, ở khoảng cách nghe được tiếng nói của cô ấy, thì đó là ngày cưới?
- Tôi tin ông - cha Ralph nói khẽ - Pađy, thế là ông đã cưới một người vợ có điều kiện trên ông rất nhiều.
- Vâng. Lúc ấy con rất sợ cô ấy, sợ đến chết được. Cô ta đẹp quá, thưa cha... Và cũng rất... xa xôi, chắc cha hiểu con muốn nói gì. Tưởng như cô ta không hiện diện trong nhà mà là một người nào khác ngồi đó.
- Bây giờ bà ấy vẫn còn đẹp, ông Pađy ạ. Cha Ralph dịu dàng nói. Tôi có thể nhìn thấy ở Meggie hình ảnh của Fiona trước kia.
- Cuộc sống dành cho Fiona không phải dễ dàng thưa cha, như cha biết đấy, không thể nào khác hơn được. Với con, ít nhất cô ấy được an toàn, không sợ bị đối xử tệ. Phải chờ đến hai năm sau con mới dám... nói thẳng ra, mới dám trở thành chồng thật sự của cô ấy. Con buộc phải tập cô ấy làm bếp, quét nhà, giặt và ủi quần áo. Trước kia cô ấy không biết làm gì hết.
Qua suốt bao năm tháng dài mà chúng con ở với nhau, chưa bao giờ cô ấy hé môi một lần thở than nhưng đồng thời cô ấy cũng không bao giờ cười hoặc khóc. Chỉ trong những lúc hết sức riêng tư, trong tình vợ chồng, cô ấy mới để lộ ra những xúc động của mình, nhưng ngay lúc đó cô ấy cũng không nói lời nào. Con rất muốn nghe cô ấy tâm tình và đồng thời lại rất sợ vì con vẫn cảm giác rằng nếu cô ấy tâm tình thì không thể tránh nhắc tới người ấy. Không! Con không nghĩ rằng cô ấy đối xử không tốt với con và mấy đứa nhỏ. Con đã dành cho cô ấy tất cả sự trìu mến nhưng hình như tình yêu đã tắt trong lòng cô ấy tự bao giờ. Ngoại trừ đối với Frank. Con đoán chắc rằng cô ấy yêu thương Frank hơn tất cả chúng con cộng lại. Có lẽ xưa kia cô ấy rất yêu cha của Frank. Nhưng con không biết gì về con người ấy, hắn ta là ai mà tại sao hắn không thể cưới Fiona.
Cha nhìn hai bàn tay mình, rồi nheo mắt.
- Ồ, Pađy, cuộc đời quả là khổ cực làm sao! Nhờ ơn Chúa mà tôi đã không dám đi gần hơn cái rìa của cuộc sống. Tôi không có can đảm ôm lấy cuộc sống thật sự trong vòng tay mình.
Pađy đứng lên loạng choạng, hai chân không vững.
- Thế đó, lần này thì con đã làm một điều dại dột. Con đã ép buộc Frank đi khỏi nhà. Fiona sẽ không bao giờ tha thứ con.
- Ông không nên nói với bà ấy, Pađy à. Không, không nên nói. Cứ giải thích đơn giản với bà rằng Frank đã đi theo đoàn võ sĩ, thế thôi. Bà ấy dư biết rằng từ lâu tính tình Frank đã như thế và bà ấy sẽ tin ông.
- Con không thể nói dối như thế, thưa cha! Pađy kêu lên, sững sờ.
- Cần nói như thế, Pađỵ Bà ấy đã đau khổ và bị dằn vặt như thế chưa đủ sao? Đừng gây thêm bất hạnh cho bà ấy nữa.
Trong lòng mình, cha Ralph nghĩ: biết đâu? - Rất có thể cuối cùng bà ấy sẽ dồn tình yêu dành cho Frank sang ông và cho con người bé nhỏ đang nằm trên lầu...
- Cha tin như thế?
- Rất có thể: Nhưng chuyện xảy ra tối nay phải được giữ bí mật giữa hai chúng ta.
- Nhưng còn... Meggiẻ Con bé đã nghe hết.
- Ông đừng lo về phần Meggiẹ Tôi sẽ liệu. Tôi không nghĩ rằng Meggie hiểu được câu chuyện xảy ra. Nó sẽ nghĩ chỉ là một cuộc cãi vã giữa ông và Frank. Tôi sẽ tìm cách làm cho Meggie hiểu rằng kể lại cho mẹ nó nghe chuyện cãi vã giữa cha và anh chỉ làm cho mẹ đau khổ thêm. Hơn nữa theo tôi nhận xét, Meggie cũng ít khi nói chuyện với mẹ nó (ông đứng lên). Ông hãy đi ngủ đi Pađỵ Nhớ đừng quên giữ cho sắc mặt của mình thật bình thường vào sáng mai khi ông trở lại làm việc với nữ hoàng Mary.
Meggie vẫn không ngủ, nằm dài, hai mắt mở to dưới ánh sáng của ngọn đèn đặt ở đầu giường. Linh mục ngồi ở mép giường và nhận ra rằng tóc của cô bé vẫn còn thắt bím. Một cách thận trọng, ông tháo chiếc rubang màu xanh nước biển và nhẹ nhàng gở từng lọn tóc cho đến khi cả mái tóc dợn sóng, vàng óng ả nằm trải ra gối.
- Anh Frank đã đi rồi, Meggie - Ông nói.
- Con biết, thưa cha.
- Con có biết tại sao không, con thân yêu?
- Có chuyện ẩu đả với ba.
- Con tính sao?
- Con sẽ đi theo Frank. Anh ấy cần con.
- Không thể được, Meggie bé nhỏ của cha.
- Được chứ thưa chạ Con muốn đi tìm anh ấy đêm nay, nhưng đôi chân của con rã rời và con rất sợ bóng đêm. Nhưng sáng mai, con sẽ đi tìm anh ấy.
- Không nên Meggie ạ. Con phải biết, Frank có cuộc sống của anh ấy, và đã đến lúc anh ấy phải ra đi. Cha biết là con không muốn cho anh ấy đi, nhưng đã từ lâu, anh ấy muốn thế. Con không nên ích kỷ. Phải để cho anh ấy chọc cuộc sống theo ý thích. Khi chúng ta lớn lên, ý muốn được sống ở ngoài cái gia đình ma ta đã được nuôi nấng là chuyện bình thường và đúng đắn. Frank đã trưởng thành, con có hiểu những lời cha nói không Meggie.
Đôi mắt cô bé nhìn thẳng vào mặt linh mục. Một đôi mắt mỏi mệt, đau đớn và không còn chút nào là trẻ con.
- Con biết, cô bé thì thầm. Frank đã muốn đi từ lâu khi con còn nhỏ xíu. Nhưng rồi anh ấy không đi được. Ba đã bắt anh đem trở về nhà và buộc anh ấy tiếp tục sống với tụi con.
- Nhưng lần này thì ba con không thể đem anh ấy về nữa, Frank đã đi thật sự rồi Meggiẹ Anh ấy sẽ không trở về.
- Con sẽ không bao giờ gặp lại anh ấy nữa sao?
- Cha không biết được - cha Ralph trả lời thành thật - Cha vẫn muốn nói với con để con yên lòng là anh ấy sẽ trở về, nhưng không ai có thể đoán được tương lai, Meggie, kể cả các linh mục. Con không nên nói cho mẹ con biết chuyện cãi vã giữa ba và anh Frank, nghe không Meggiẻ Điều đó sẽ làm cho mẹ thêm đau buồn; mẹ con hiện không được khỏe.
- Bởi vì mẹ sắp có em bé?
- Sao con biết.
- Mẹ rất thích làm nở ra các em bé. Và mẹ đã cho nở nhiều em bé rất dễ thương, thưa chạ Ngay cả khi mẹ không được khỏe. Con sẽ cho nở ra một em bé như Hal. Như thế con sẽ thấy bớt nhớ Frank hơn.
- Sự sinh sản - cha Ralph nói một mình. Chúc con may mắn, Meggiẹ Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con không làm nở ra được một em bé?
- Con vẫn có Hal, giọng nói của Meggie đầy vẻ buồn ngủ, đầu nép vào gối, cha ơi, còn cha sẽ không đi chứ?
- Một ngày nào đó, rất có thể; nhưng bây giờ thì chưa, Meggie ạ, con đừng lo nghĩ. Cha có cảm giác là cha sẽ ở Gilly lâu, rất lâu - Cha Ralph trả lời, hai mắt vương buồn.
Chương 9
Không thể khác hơn, Meggie phải trở về nhà. Fiona cần sự giúp đỡ của cô bé. Stuart còn lại một mình ở tu viện Gilly, bắt đầu một cuộc tuyệt thực, cuối cùng cũng đã trở về nhà.
Khi gặp lại mẹ, cô bé tưởng như bị một sức nặng khủng khiếp đè nặng người mình; cô có biết đâu đó là dấu hiệu của sự rời bỏ tuổi thơ và là sự cảm nhận rất sớm thân phận người phụ nữ.
Bề ngoài, Fiona không thay đổi, ngoại trừ cái bụng, nhưng bên trong, tất cả đều chậm lại như một chiếc đồng hồ treo tường cũ kỹ với cái quả lắc mỗi lúc một mỏi mệt cho đến khi ngừng hẳn.
Chú be con tóc màu hung chạy lăng xăng khắp nhà đụng vào bàn ghế, nhưng Fiona không ép nó vào một khuôn khổ kỷ luật nào. Bàn vẫn tiếp tục công việc như lâu nay - đi lại giữa nhà bếp, nơi giặt quần áo và bồn rửa chén - như trên đời không còn gì khác hơn để làm.
Không ai nhắc tới tên của Frank nhưng cứ sáu tuần một lần, Fiona ngước nhìn lên khi nghe tiếng kèn đồng báo hiệu chiếc xe phát thư đến. Bà vui lên một lúc. Nhưng khi bà Smith đã trao thư từ cho Fiona và không thấy có thư nào của Frank thì nỗi xót xa lại xâm chiếm lấy bà và tắt lịm đi.
Có thêm hai người mới trong nhà. Fiona cho ra đời một lúc hai đứa con trai tóc hung. James và Patrick mà trong nhà gọi một cách thân yêu là Jimes và Patsy.
Bé Hal thì chỉ biết có Meggie, nó không muốn ai khác.
Chương 10
Cha Ralph quan sát Meggie một cách trìu mến. Cô bé đang chải mái tóc màu hung và uốn lọn cho Patsy đứng không vững trên hai chân bé nhỏ, trong khi Jimes đứng kế bên chờ đến phiên mình. Cả hai nhìn chị bằng cái nhìn đầy thương yêu. Đúng là một bà mẹ tí hon. Tấm lòng ấy phải là một đức tính bẩm sinh ở Meggie - cha Ralph nghĩ thầm.
Trong một lúc cha Ralph bị thu hút bởi cảnh thân mật dễ thương này. Ông thả lỏng chiếc roi da xuốn đôi giày bốt đầy bụi, rồi đưa mắt u buồn nhìn qua hiên, hướng về tòa nhà lớn khuất sau những cây bạch đàn và các thứ cây leo khác, biệt lập với căn nhà của người quản lý và cuộc sống còn lại của điền trang.
Giữa cái mạng lưới nhện rộng bao la ấy, con nhện già đang toan tính giăng ra một kế nào nữa?
- Cha ơi, cha không nhìn đây! Meggie kêu lên trách móc.
- Cha xin lỗi con! Cha đang suy nghĩ.
ông quay lại nhìn Meggie đúng lúc cô bé vừa chải xong cho Jims. Cả ba đang theo dõi ông, chờ cái lúc ông nghiêng mình xuống để bế hai chú bé con sinh đôi, mỗi đứa một bên hông.
- Chúng ta hãy cùng nhau thăm bà Marỵ Ông nói.
Meggie đi theo sau cha Ralph trên con đường dẫn đến ngôi nhà lớn, một tay cầm cây roi da của linh mục và một tay dắt cương con ngựa cái lông hai màu. Còn linh mục bế hai đứa bé không có vẻ gì mệt nhọc mặc dù từ đó đến tòa nhà lớn xa hơn một cây số rưỡi. Vào phía sau nhà bếp, cha Ralph lần lượt trao hai đứa bé cho bà Smith đón nhận chúng một cách sung sướng. Cha đi thẳng ra nhà trước, Meggie theo bên cạnh.
Mary Carson đang ngồi trên chiếc ghế bành đặc biệt cho mình. Lúc này, bà ít khi rời khỏi ghế, hơn nữa, sự có mặt của bà cũng không còn cần thiết vì Pađy lo liệu tất cả một cách giỏi giang. Khi cha Ralph bước vào, cầm tay Meggie, thì cái nhìn đầy á c cảm của bà già buộc ngay cô bé phải nhìn xuống đất; cha Ralph nghe được tiếng tim đập nhanh của Meggie, càng nắm chặt cổ tay của cô bé truyền sang nó niềm an ủi và sự âu yếm. Cô bé nghiêng người xuống chào một cách vụng về, miệng ấp úng mấy câu thưa gửi.
- Cô bé đi ngay ra phía sau nhà bếp chơi. Cháu uống trà với bà Smith - Mary Carson ra lệnh một cách lạnh lùng.
- Tại sao bà không thương nó? Cha Ralph vừa hỏi vừa buông mình xuống chiếc ghế mà ông hiểu rằng Mary Carson dành cho ông.
- Bởi vì cha thương nó - bà trả lời.
- Thôi đi! Cha Ralph phản đối, lần thứ nhất thấy mình ở vào thế yếu - Con bé chỉ là đứa trẻ cô độc, bà Mary ạ.
- Nhưng cha đã không nhìn nó dước góc cạnh đó, chính cha cũng biết điều ấy
Cặp mắt xanh đẹp nhìn bà một cách mỉa mai; ông cảm thấy thoải mái hơn.
- Bà nghĩ rằng tôi có những quan hệ tội lỗi với trẻ con? Dù sao tôi cũng là linh mục.
- Trước hết cha là một người đàn ông, Ralph de Bricassart! Làm linh mục - điều đó chỉ mang đến cho cha một cảm giác an toàn, có thế thôi.
Bất ngờ và bối rối, cha Ralph cười. Không hiểu vì sao, ông cảm thấy thấy mình bất lực, không có khả năng so gươm với bà ngay hôm đó; hình như bà đã khám phá ra chỗ nhược của chiếc áo giáp và bà đã khoan vào đấy bằng nọc độc của con nhện. Có lẽ ông đã thay đổi nhiều, đã gìa đi, chấp nhận thích nghi với cuộc sóng lu mờ ở Gillabonẹ Ngọn lửa tắt dần trong lòng ông hay là nó dã cháy lên với một niềm say mê khác?
- Tôi không phải là một người đàn ông - Ông vặn lại - Tôi là linh mục...
- Ồ, Ralph, cha đã thay đổi nhiều quá - bà chế diễu - Phải chăng tôi đang nghe chính đức Hồng Y De Bricassart nói?
- Không hề có chuyện đó, ông nói, cái nhìn có một thoáng tuyệt vọng che khuất. Tôi không nghĩ rằng tôi còn muốn tiến lên trên những tần cao ấy.
Bà Mary cười lớn, người nghiêng ra trước rồi ngả ra sau trên chiếc ghế bành, nhưng không một giây lơi quan sát cha Ralph.
- Có thật thế không Ralph? Cha không còn muốn nữa? Thế thì, tôi sẽ để cho cha mốc meo ở đây thêm một thời gian, nhưng rồi cái ngày đền tội của cha sẽ đến, không thể nghi ngờ. Tôi là hiện thân Quỷ Xa tăng đối với cha và tôi sẽ hiến dâng cho cha... Thôi, tôi đã nói đủ rồi! Nhưng đừng có nghi ngờ, tôi sẽ bắt cha chịu sự nhục hình. Cha là người đàn ông hấp dẫn nhất mà tôi gặp. Cha ném cái đẹp của cha lên đầu chúng tôi, đồng thời lại khinh miệt những sự yếu đuối của chúng tôi. Nhưng tôi nhất định sẽ ghim cha lên tường và bằng cách khai thác chính những chỗ yếu của cha, tôi sẽ buộc cha tự bán mình như một con điếm son phấn lòe loẹt. Cha có tin như thế không?
ông bật ngửa ra sau, cười.
- Tôi không nghi ngờ là bà sẽ thử làm việc ấy nhưng tôi không tin bà hiểu tôi như bà tưởng.
- Không hẳn. Thời gian sẽ trả lời cha, Ralph, chỉ có thời gian thôi. Tôi đã già, với tôi không còn gì khác hơn là sự chờ đợi.
- Thế thì bà nghĩ tôi có cái gì khác hơn à? ông hỏi lại. Cũng là thời gian mà thôi, bà Mary, chỉ có thời gian. Thời gian, cát bụi và muỗi mòng.
Một hôm, bé Hal ho; hơi thở khó, mệt nhọc từng lúc và sức khỏe xuống rất nhanh. Pađy lên nhà lớn gọi điện thoại nhưng bác sĩ lại ở cách đây hơn 60 cây số và ông ta đang đi thăm một bệnh nhân khác.
Meggie không tin Hal sẽ chết, ngay cả khi Fiona và Pađy quỳ bên giường, tuyệt vọng, đọc kinh cầu nguyện cho Hal. Nửa đêm, Pađy gỡ hai tay của Meggie đang ôm Hal rồi bế thân xác nhỏ bé cứng đơ của Hal đặt nhẹ nhàng lên giường.
Bấy giờ, Meggie choàng mở mắt. Cô bé đã thiếp đi lúc Hal không còn giãy giụa nữa.
- Ba ơi, Hal có đỡ không ba?
Pađy lắc đầu.
- Không, Meggie ạ. Hal không đỡ chút nào như con mong, em đã yên nghỉ rồi. Hal đã trở về với Chúa, thế là không còn đau khổ nữa.
- Không, ba ơi, em không chết. Không thể thế được.
... Meggie ngồi trên ghế hai tay đặt lên đầu gối. Hal thuộc về cô bé nhưng Hal đã chết. Chú Hal mà Meggie đã thương yêu, săn sóc, dỗ ngủ nay đã không còn.
Cha Ralph đã bắt gặp Meggie như thế khi bước vào nhà cùng với một bác sĩ đi theo. Sau đó không lâu thì bác sĩ đi ra. Ông không thể làm gì khác hơn vì ở cách quá xa bệnh viện, phương tiện y tế lại thiếu.
Sau đó, nhiệm vụ của cha Ralph cũng xong. Pađy tìm Fiona, còn Bob và các anh trai của Meggie thì xuống xưởng mộc để đóng cái hòm.
Quên rằng mình đang choàng chiếc khăn lễ màu tía trên cổ, cha Ralph cúi xuống thổi bếp bùng lên. Ông vặn thấp ngọn đèn đặt trên bàn phía sau rồi ngồi trên chiếc ghế dài đặt trước mặt Meggie để có thể quan sát cô bé rõ hơn. Meggie đã lớn; cô bé đã mang hia bảy dặm, có khả năng bỏ lại cha Ralph đằng sau. Ông cảm thấy mình ngày càng rối loạn lên dữ dội khi nhìn lại cả chiều dài của một cuộc đời đầy rẫy những hoài nghi và ám ảnh. Nhưng ông sợ cái gì? Cái gì đã làm cho ông nghĩ rằng nếu nó xuất hiện thì ông không thể đối đầu? ông có thể vững vàng với những người khác; ông không sợ; nhưng nơi ông, sự chờ đợi cái điều không thể giải thích ấy đang len vào trong ý thức của ông, giữa lúc mà ông ít chờ đợi nhất thì ông biết sợ. Trong khi ấy Meggie, sinh ra sau ông 18 năm, đang lớn lên, bước trước ông rất xa.
Meggie không phải là một nữ thánh, càng không phải là một cô bé gái như mọi cô bé gái khác. Meggie không bao gio than vãn, lại có cái đức tính bẩm sinh - hay đó là một bất hạnh - là sự chịu đựng. Trước bất cứ chuyện gì hoặc xắp xảy ra cô bé đều đối đầu và chấp nhận hết để đốt cháy thêm ngọn lửa trong lòng. Hay là ý tưởng mà ông đã có về Meggie chỉ là tấm gương phản chiếu những ảo tưởng của chính ông.
- Ồ, Meggie - Ông thì thầm với một tiếng thở dài bất lực.
Meggie quay lại nhìn cha Ralph đột ngột và từ niềm đau khổ tột cùng cô bé mỉm cười như gửi đến cha Ralph một nụ hôn yêu thương tuyệt đối, tràn trề, không ẩn giấu bất cứ điều gì; những điều cấm kỵ và ức chế của một người phụ nữ chưa có thế giới riêng tư, còn ngây thơ của Meggie.
Được yêu như thế làm cho cha Ralph bàng hoàng, như bị thiêu đốt; ông đã phải xin Thượng đế - dù cho trước đây lắm lúc ông đã nghi ngờ sự hiện hữu - hãy biến ông thành bất cứ một con người nao khác trong cuộc đời này, miễn là không phải Ralph de Bricassart. Có phải chăng chính đó la điều không thể giải thích trong ông? Thượng đế ơi, tại sao tôi lại yêu thương cô bé đến thế? Nhưng cũng như mọi khi, không có ai trả lời cho ông; Ngồi im trước mặt, Meggie vẫn tiếp tục mỉm cười với ông...
Cuộc sống tiếp diễn theo cái vòng tuần hoàn vĩnh cửu, đều đặn của trái đất, mùa hè kếp tiếp mang những cơn mưa đến làm đầy con suối và các bồn chứa, tưới mát những rễ cây khát nước, giữ chặt trên mặt đất những cơn bụi điên cuồng. Bọn đàn ông mừng rỡ muốn khóc khi làm những công việc mùa vụ, yên tâm không phải mất công chở cỏ khô để nuôi cừu.
Drogheda biệt lập với thế giới còn lại, chỉ có đọc sách là cách tiếp xúc duy nhất với bên ngoài. Nhưng không như Wahine có thư viện lưu động, ở đây chỉ trông cậy vào Ralph. Ông cung cấp cho các gia đình ham đọc ở Drogheda những quyển sách lấy từ tủ sách của chính ông và của tu viện.
Vào thời đó, cuốn sách ướt át nhất cũng chỉ dám tả một nụ hôn trong sáng, chứ không đi xa hơn.
Trong sự biệt lập ấy, Meggie hoàn toàn không hiểu được cả cái ý nghĩa của khái niệm những thực tế của cuộc sống vì rằng điều kiện thực tế đã ngăn chặn mọi ngã đường khám phá. Cha của cô dựng lên một rào chắn kiên cố giữa đàn ông phụ nữ trong gia đình; các đề tài như gây giống hay giao phối của súc vật không bao giờ được đề cập trước mặt Meggie và đàn ông không bao giờ xuất hiện trước mặt cô bé mà không ăn mặc đàng hoàng. Loại sách có khả năng soi sáng một chút gì đó cũng không tới Droghedạ Meggie không có bạn gái cùng lứa tuổi để tăng thêm sự hiểu biết. Cuộc sống của cô bé chỉ quanh quẩn vào những công việc trong nhà và những vùng lân cận, hoàn toàn không có một hoạt động nào dính dấp đến giới tính. Các sinh vật ở vùng đất này đều không sinh đẻ. Mary Carson không gây giống ngựa; bà mua ngựa của Martin Jang ở Bugelạ Ở trang trại có một con bò rừng, con vật hung dữ không cho mọi người léo hánh tới. Mấy con chó thì bị cột trong chuồng; lấy giống được coi như một công việc khoa học và diễn ra dưới mắt lành nghề của Pađy và Bob. Thời giờ không phải để chăm sóc mấy con heo, vả lại Meggie cũng rất ghê tởm chúng dù phải nuôi. Nói cho đúng là Meggie không có thời giờ cần thiết để nghĩ đến bất cứ chuyện gì ngoài hai đứa em trai. Sự dốt nát này kéo theo sự dốt nát khác; một cơ thể và một bộ Óc không được kéo ra khỏi cơn ngủ thì cứ tiếp tục ngủ, mặc các sự kiện mà con người vừa mở mắt đã ghi nhận được tất cả.
Vài hôm trước sinh nhật lần thứ 15 của Meggie, giữa cái nóng oi bức của mùa hè lên đến gần cực điểm, Meggie bỗng chú ý thấy những vết nâu nâu từng vệt dính trong quần lót. Sau đó một hai hôm không thấy gì nữa nhưng sáu tuần sau, các vết ấy lại xuất hiện trở lại. Sự mắc cở ở Meggie biến thành sợ hãi. Lần đầu, cô nghĩ là do mình giặt quần áo không sạch, thật là nhục; nhưng qua lần xuất hiện thứ nhì, sự hoài nghi không cho phép nữa, chắc chắn không thể chối cãi đây là máu. Meggie không có một chút khái niệm gì về nguyên nhân sự chảy máu ấy nhưng cô tưởng tượng là nó chảy ra ở phía sau. Sự chảy máu rỉ rả ấy biến đi sau ba ngày và không trở lại trước hai tháng sau; Meggie lén lút giặt quần lót, không ai hay biết vì ngày thường cũng chính Meggie đảm trách phần giặt giũ quần áo cho mọi người trong nhà.
Hiện tượng chảy máu lần kế tiếp kèm theo sự đau đớn, sự đau đớn nhiều nhất từ trước tới này, hơn cả những cơn đau dạ dày. Và lần này, máu chảy cũng nhiều, thật nhiều. Cô ăn cắp vài miếng tã lót cũ của hai em trai sinh đôi và đặt ở trong quần lót, với nỗi lo sợ kinh khủng máu có thể chảy ra tới bên ngoài.
Cái chết đã mang Hal đi được Meggie hiểu như sự xuất hiện của một hiện tượng siêu tự nhiên, nhưng còn cái gì đó đang chảy âm ỉ từ trong người của Meggie thì lại gây cho cô một nỗi kinh hoàng. Bằng mọi cách Meggie phải đi tìm mẹ hoặc cha để thông báo rằng mình sắp sửa chết do một bệnh tật nhục nhã, khó nói cho ai biết. Chỉ duy nhất với Frank, cô mới có thể thổ lộ nỗi lo âu của mình, nhưng giờ đây anh ấy đang ở quá xa và không biết cách nào mà tìm. Meggie có nghe những người phụ nữ lớn tuổi giữa lúc uống trà đã nói với nhau về những khối u và ung thư, về những cái chết khủng khiếp của những người bạn và những người bà con sau những tháng dài đau đớn. Và Meggie tin rằng một hiện tượng tương tự cũng đang ngốn bên trong cơ thể ầm ỉ, tiến sâu vào trái tim hoảng hốt của Meggiẹ Ôi, cô bé không muốn chết chút nào!
Những hiểu biết tương đối về cái chết lại rất mơ hồ đối với Meggie nhưng cô rất sợ hãi và không bao giờ muốn chết. Meggie không thể tưởng tượng được mình sẽ ra sao trong cái thế giới bên kia. Với Meggie, tôn giáo chẳng khác gì một loạt luật lệ hơn là cuộc sống tinh thần, do đó tôn giáo không giúp gì được cho cô cả.
Sự lặng lẽ xâm chiếm Meggie, sự yên tĩnh ấy không thể so sánh với nỗi cô độc êm đềm và mơ mộng của Stuart. Ở Meggie sự lặng lẽ đó có cả chút sợ hãi sửng sốt của một con thú bị rắn thôi miên. Khi có ai hỏi đột ngột, Meggie giật nẩy người, nếu các đứa em trai gọi Meggie bằng cách hét to lên, Meggie sẽ chạy hốt hoảng và tự trách mình sao sơ sót. Và cứ mỗi khi lợi dụng được giây phút hiếm hoi ngơi nghỉ, Meggie liền chạy nhanh ra nghĩa trang để tìm lại Hal, cái chết duy nhất mà cô được biết.
Mọi người đều nhận ra sự thay đổi ở Meggie nhưng đều coi đó là một hiện tượng phát triển bình thường của lứa tuổi. Cô bé giấu kín một cách tài tình nỗi cô đơn tuyệt vọng. Không ai có thể hiểu những gì xảy ra bên trong Meggiẹ Không có một biểu lộ nào, và sự kín đáo đó được giữ cho tới cùng. Từ Fiona đến Stuart, qua Frank, không biết bao nhiêu điều đã xảy ra.
Thế mà, trong những chuyến thăm Drogheda thường xuyên, cha Ralph đã nhận ra sự thay đổi ở Meggie; sự thay đổi ấy trùng hợp với diễn biến rất dễ thương ở người phụ nữ; nó làm giảm đi các họat động vì lo lắng rồi âu sầu. Một sự sa sút về thể xác lẫn tinh thần đập vào mắt cha Ralph. Meggie lẩn tránh mọi người. Cha Ralph không muốn thấy Meggie biến thành một Fiona thứ hai. Gương mặt nhỏ bé thu lại chỉ còn thấy rõ đôi mắt, đôi mắt mở to như hướng về một viễn ảnh khủng khiếp nào. Da màu sữa, trước đây đầy đặn, không hề bị rám nắng, cũng không có vết tàn nhang, đang càng lúc càng tăng lên. Nếu cái đà này cứ tiếp tục, cha Ralph nghĩ thầm, một ngày nào đó Meggie sẽ tự đâm mình, vất vưởng trong tia sáng hiu hắt màu nâu, lờ đờ, rất khó nhận ra bằng mắt, giữa những chiếc bóng đan lên nhau và những vệt đen đang lan dần lên bức tường trắng.
Thế là cha Ralph quyết khám phá điều ấy ở Meggie, dù phải dùng biện pháp mạnh. Vào lúc đó, Mary Carson tỏ ra khó chịu và ghen tương từng lúc mỗi khi cha Ralph ở lại tại nhà Pađy.
Một hôm, ông thoát ra được sự kềm kẹp của Mary Carson và săn tìm cho được Meggie, cuối cùng gặp cô trong nghĩa trang nhỏ, núp nắng dưới một bức tượng thánh - Meggie đang nhìn nét mặt nhợt nhạt của bức tượng, trong khi đó chính gương mặt của cô biểu lộ nét sợ hãi, một sự tương phản giữa xúc cảm và vô cảm trơ trơ - cha Ralph nghĩ thầm như thế. Nhưng mình ở đây làm gì, chạy theo đuôi cô ta như một con gà mẹ già nua, trong khi Fiona hoặc Pađy có trách nhiệm tìm hiểu những nguyên nhân âu lo của con gái.
Nhưng cha mẹ của Meggie đã không nhận thấy gì bở họ ít quan tâm đến con gái, trong khi cha Ralph lại dành cho Meggie thật nhiều thứ. Hơn thế, với cương vị một linh mục, cha Ralph còn có trách nhiệm an ủi những tâm hồn đau khổ cô đơn và tuyệt vọng. Ông không thể chịu đựng nổi khi thấy Meggie đau khổ, nhưng tai hại là ông đã ngày càng gắn bo với Meggie qua một loạt sự kiện rắc rối chồng lên nhau. Với Meggie, ông đã hằn sâu biết bao sự việc và kỷ niệm, do đó ông cảm thấy sợ. Tình thương của ông dành cho Meggie và bản chất linh mục của ông, thúc đẩy ông phải sẵn sàng mang lại mọi sự giúp đỡ về mặt tinh thần mà đúng ra mọi người đều có quyền chờ đợi ở ông. Ông phải tự chiến đấu để thấy rõ hơn là mình có trách nhiệm với Meggie cũng như với bất cứ ai khác.
Nghe tiếng chân đi trên cỏ, Meggie quay lại, hai tay đặt chéo trên đùi, mắt nhìn xuống. Cha Ralph đến ngồi bên cạnh cô, tay bó gối. Chiếc áo choàng không được kín đáo làm tăng vẻ đẹp cái thân thể bên trong của chạ Thối thoát vô ích, ông nghĩ thầm. Nếu muốn, Meggie có thể tránh né ông.
- Có chuyện gì xảy ra hở Meggie?
- Không có chi thưa cha.
- Cha không tin lời con.
- Con xin van cha, con xin van cha ma! Con không thể nói với cha chuyện này được.
- Ồ, Meggie thương yêu! Cô gái thiếu đức tín! Con có thể nói với cha tất cả. Chính vìthế mà cha có mặt tại đây. Chính vì thế mà cha là linh mục. Cha là người đại diện đã được Chúa lựa chọn trên trần gian. Cha nhân danh Chúa mà nghe con nói, nhân danh Người ta có quyền tha thứ cho con. Nghe đây Meggie bé nhỏ của ta, không có điều gì ở trên trần thế này mà Chúa và ta không thể tha thứ. Con phải nói cho ta biết điều gì làm con băn khoăn, con thương yêu. Ngày nào ta còn trên đời này, ta sẽ luôn tìm cách giúp đỡ con, che chở con. Nếu con muốn thì cha sẽ như một thiên thần hộ mệnh, chắc chắn đáng tin cậy hơn so với bức tượng đá cẩm thạch mà con nhìn thấy. Nếu con thương yêu ta, hãy nói cho ta biết làm gì làm con lo lắng.
- Thưa cha, con sắp chết, cô gái vừa nói vừa vặn hai tay - con bị ung thư.
Suýt nữa ông cười to lên vì gánh nặng trong lòng bỗng chốc trút bỏ hết; nhưng liền đó nhìn kỹ làn da mịn, hơi xanh, hai cánh tay nhỏ gầy của Meggie, trong lòng ông nổi lên một thèm muốn ghê gớm được khóc và hét to lên, oán giận cả trời đất trước một bất công như thế. Không, Meggie không tự mình tưởng tượng ra chuyện khủng khiếp ấy mà không dựa vào một nguyên nhân nào đó, có thể có một lý do.
- Điều gì khiến cho con tin như thế, quả tim bé nhỏ của cha?
Phải một lúc khá lâu, cô mới kể lại và khi ấy, cha Ralph phải nghiêng đầu về phía gần môi Meggiẹ Ông lặp lại một cách máy móc tư thế của một linh mục trước một con chiên đang xưng tội: lấy tay che mặt để mắt cô gái không trông thấy mình, còn tai sẵn sàng nghe những lời xưng tội.
- Cách đây sáu tháng thưa cha, chuyện ấy bắt đầu xảy ra. Con bị đau bụng dữ dội, nhưng không phải đau bụng như khi ăn không tiêu đâu... Rồi... Cha ơi... rất nhiều máu chảy ra.
Cha Ralph ngửa đầu ra sau, cử chỉ mà không bao giờ có trong những lúc nghe xưng tội; ông nhìn đầu Meggie cuối xuống vì xấu hổ. Biết bao xúc động dấy lên khiến cho ông không thể lấy lại sự bình tĩnh. Vô lý thật. Sự nhẹ nhõm hết sức dễ chịu rồi sau đó ông lại giận Fiona, mẹ của Meggie, ông thán phục với sự kinh ngạc khi nghĩ đến cô gái bé bỏng ấy sao lại có thể chịu đựng một cực hình dai dẳng, một sự khó chịu như thế mà không hình dung được là cái gì.
ông đã từng nghe những chuyện tương tự như chuyện Meggie kể trong suộc cuộc đời linh mục. Mỗi thành phố cha từng ở lại từ Dublin đến Gillabone, đều có những cô gái hư hỏng len vào phòng xưng tội kể lể những chuyện bịa đặt cứ như là thật với mục đích duy nhất là khơi dậy cái điều mà họ tò mò nhất ở một linh mục: đó là tính sung mãn của người đàn ông. Tất cả đám con gái đó không chịu nhìn nhận rằng họ hoàn toàn thất bại trong toan tính này. Họ thì thầm kể lại nào là họ đã bị hãm hiếp như thế nào, gợi lên những trò cấm kỵ giữa họ với những đứa con gái khác, những chuyện dâm đãng và ngoại tình; một vài cô trong bọn, óc tưởng tượng phong phú hơn, đến mức kể tỉ mỉ những chi tiết làm tình với một linh mục. Thế mà cha Ralph vẫn nghe, hoàn toàn không xao xuyến mà chỉ thấy kinh tởm và xót xa cho họ. Cha đã trải qua cuộc sống khắc khổ ở tu viện.
Hơn thế nữa với một con người thuộc tầm cỡ ông, bài học ấy ông tiêu hóa không khó khăn lắm. Nhưng trong tất cả các trường hợp đã qua, chưa bao giờ các cô gái lại nói về những chỗ yếu của thân xác, làm hạ phẩm giá của họ.
Dù hết sức cố gắng nhưng cha Ralph không thể ngăn chặn máu trong người nóng lên. Mặt ửng đỏ; cha Ralph quay đầu đi và úp mặt trong tay, chống chỏi lại sự hổ thẹn lần đầu làm đỏ mặt ông.
Nhưng tất cả những chuyện ấy không giúp gì cho cô gái bé Meggiẹ Khi biết chắc rằng sắc mặt của mình đã trở lại bình thường, cha Ralph đứng dậy, nâng Meggie lên và đặt cô gái ngồi trên bệ đá cẩm thạch để cho mặt của Meggie cao ngang với ông.
- Meggie hãy nhìn chạ Đừng làm thế, hãy nhìn thẳng cha.
Meggie ngước lên với đôi mắt của con thú bị săn đuổi và thấy linh mục mỉm cười; tâm hồn cô cảm thấy nhẹ nhàng một niềm an ủi vô hạn. Cha sẽ không mỉm cười như thế nếu cô sắp chết. Meggie biết rất rõ cha Ralph chẳng bao giờ giấu diêm tình cảm của ông.
- Meggie, con không biết đâu và con cũng không bị ung thự Đúng ra ở cương vị này cha không thể giải thích chuyện gì đã xảy ra nhưng cha nghĩ rằng cha phải làm thôi. Đáng lý mẹ con hải nói cho con biết từ lâu, chuẩn bị cho con sẵn sàng đón nhận hiện tượng ấy. Cha không thể nào hiểu được tại sao mẹ con không làm như vậy.
Cha Ralph liếc nhìn bức tượng thánh bằng cẩm thạch đứng sữn trên cao, rồi cười như tắt nghẹn.
- Lạy chúa! Chúa giao cho con một nhiệm vụ không dễ dàng. Này Meggie thân yêu, với năm tháng, khi con lớn lên, rồi già đi và khi con biết được nhiều hơn về những thực tế của cuộc sống, con sẽ nhớ lại cái ngày này mà không khỏi khó chịu, hổ thẹn nữa là khác. Nhưng đừng giữ kỷ niệm này làm gì, Meggie ạ. Tất cả chuyện này chẳng có gì lạ xấu hổ và chẳng có gì ngượng ngập cả. Lúc này, cũng như mọi khi, cha chỉ là công cụ Ở trần thế, cha không có quyền nghĩ đến nhiệm vụ nào khác. Con đã quá sợ hãi, con cần sự giúp đỡ, và Đức Chúa Trời đã ban cho con sự giúp đó qua đại diện của Người là tạ Con nên nhớ điều ấy, Meggie ạ. Cha là tôi tớ của Chúa và những gì cha nói đều nhân danh Chúa. Chuyện xảy ra với con là chuyện đã xảy ra với tất cả mọi phụ nữ, Meggie, mỗi tháng một lần và kéo dài trong nhiều ngày, con sẽ thấy ra máu. Thường chuyện đó xuất hiện ở tuổi 12, 13... Con đã mấy tuổi?
- Thưa con mười lăm!
- Mười lăm à? Con đã mười lăm? - Cha Ralph lắc đầu không tin - Nhưng thôi, con đã nói với cha thì cha không nghi ngờ gì. Với cái tuổi mười lăm chuyện ấy xảy ra như thế là trễ. Hiện tượng này sẽ diễn mối tháng cho đến khi con trên 50 tuổi. Với một số người nó xuất hiện đều đặn theo chu kỳ tuần trăng, với một số khác có thể không đều đặn. Với người này không bị đau đớn, với người khác thì ngược lại. Người ta không biết được tại sao sự khác nhau ấy. Nhưng đó là dấu hiệu trưởng thành của con. Con có hiểu trưởng thành là gì không?
- Con biết chứ, thưa chạ Con đọc sách! Trưởng thành có nghĩa là con đã lớn.
- Tốt. Giải thích như thế cũng khá đủ. Khi nào con ra máu là người phụ nữ còn có thể có con. Đó là sự kết tục nòi giống. Vào thời kỳ trước khi xảy ra tội tổ tông, hình như Eva không có kinh nguyệt. Kinh nguyệt là tên gọi hiện tượng đã xảy đến với con, Meggiẹ Nhưng khi Adam và Eva phạm tội, Chúa Trời đã trừng phạt người phụ nữ nặng hơn vì rằng trong sự sa ngã ấy, người phụ nữ có tội nhiều hơn, chính họ đã cám dỗ người đàn ông. Con có nhớ những lời giảng trong kinh thánh không? Người sẽ sinh đẻ trong đau đớn, có nghĩa là Chúa muốn rằng đối với người phụ nữ, tất cả những gì liên quan đến việc sinh đẻ đều là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Đó là những niềm vui sướng thật lớn lao nhưng đồng thời cũng là những đau đớn tận cùng. Đó là phần số của con người, Meggie ạ, con phải cam chịu như vậy.
Meggie không biết rằng cha Ralph cũng sẵn sàng mang lại sự an ủi và giúp đỡ y như thế với bất cứ một nữ giáo dân nào, mặc dù có khi cha không thiết tha đến số phận của họ như đối với số phận của Meggiẹ Cha là hiện thân của lòng tốt, nhưng không bao giờ cha lại để bị lôi cuốn vào những nỗi lo âu. Sự an ủi và giúp đỡ riêng càng có ích gấp bội đối với người đón nhận. Cha Ralph vượt lên trên những điều tầm thường. Bất cứ ai cần sự giúp đỡ của cha đều không cảm thấy bị ghét bỏ hay chê trách. Nhiều linh mục đã khiến cho con chiên mang mặc cảm tội lỗi, xấu xa, đê tiện khi ra về. Còn cha Ralph thì không. Cha Ralph làm cho họ hiểu rằng, chính bản thân ông, cũng có những niềm đau và những cuộc đấu tranh. Niềm đau thì xa lạ còn cuộc đấu tranh có thể không thấy rõ hết nhưng không vì hiểu điều này, rằng phần lớn sức quyến rũ và sức hấp dẫn của ông không do con người xác thịt của ông tạo nên, mà do chính sự xa cách gần như thần thánh, do một phần nhỏ rất con người thấm sầu vào tâm hồn ông.
Với Meggie, ông nói chuyện như Frank đã nói chuyện với em gái, mang hàng nhau. Nhưng ông lớn tuổi hơn, sáng suốt hơn và hiểu biết hơn Frank nhiều, do đó ông là người mà Meggie có thể tâm tình thoải mái hơn. Giọng nói của cha Ralph thanh thoát mang âm điệu nhẹ nhàng của người Ailen, có khả năng làm lắng xuống mọi sợ hãi và âu lọ Meggie còn trẻ, lúc nào cũng tò mò, khao khát được hiểu tất cả những gì cần thiết; đầu óc chưa bao giờ bị rối loạn bởi những triết lý vốn thường gây hoang mang. Cha Ralph là người bạn của cô, là thần tượng yêu thương của lòng cô, một mặt trời mới trong bầu trời riêng của cô.
- Meggie, bây giờ con phải trở về nhà và nói cho mẹ con biết là con bị ra máu. Mẹ con sẽ chỉ cách làm thế nào để giữ cho con được sạch.
- Mẹ con cũng bị như thế chứ?
- Tất cả phụ nữ khỏe mạnh đều bị như thế. Nhưng khi mang thai, sẽ ngưng lại cho đến ngày sinh em bé. Chính khi tắt kinh, người phụ nữ biết rằng mình đang mang trong người một mầm sống mới.
- Tại sao máu ngưng chảy ra khi người phụ nữ chờ đợi sinh con?
- Cha không biết, thật sự không biết. Xin lỗi con, Meggie.
- Tại sao máu lại chảy ở phía sau?
Cha Ralph hướng mắt giận dữ về phía tượng thánh đang bình thản ngắm nhìn ông, bất động trước những buồn phiền mà những người phụ nữ gặp phải. Mọi việc trở nên quá hóc búa đối với cha Ralph. Ông không ngờ Meggie lại đặt các câu hỏi xa vời mà bình thường cô hay bỏ lửng nửa chừng, điều ấy khiến cho cha kinh ngạc! Nhưng ông ý thức rằng từ nay ông sẽ là nguồn cung cấp hiểu biết cho Meggie, ông cố tránh bằng mọi giá không để cô phát hiện sự bối rối và khó chịu của mình. Rất có khả năng, cô sẽ thu mình lại và không thèm đặt câu hỏi với ông nữa.
- Máu không chảy ra từ phía sau của con, Meggie - Ông trả lời, với tất cả sự kiên nhẫn. Nó chảy ra từ một nơi ẩn giấu, phía trước thân thể con, cái nơi dính dáng mật thiết với chuyện có con.
- Ồ, có phải ý cha muốn nói máu chảy ra từ chỗ ấy? Meggie reo lên. Nhiều lần con đã tự hỏi các em bé ra đời như thế nào?
ông mỉm cười, nhấc bổng Meggie lên khỏi bệ đá.
- Bây giờ thì Meggie đã biết tất cả rồi. Con có biết ai tạo ra những đứa con không, Meggie?
- Ồ, biết chứ! - Meggie ưỡn ngực ra, vui sướng vì đã hiểu biết chút ít - Người ta làm cho các em bé mọc ra.
- Và con có biết chúng bắt đầu mọc ra như thế nào không?
- Khi người ta muốn có các em bé một cách mãnh liệt.
- Ai nói cho con nghe điều ấy?
- Không ai cả. Con tự hiểu như thế.
Cha Ralph nhắm mắt lại và thầm nghĩ không ai có thể kết tội ông hèn nhát vì đã bỏ lửng chuyện ấy ở đó. Dù cho ông có thương hại cô gái bé nhỏ, ông vẫn không thể giúp đỡ cô ta xa hơn. Thử thách mà ông trải qua như thế quá đủ rồi.
No comments:
Post a Comment